4302013
4302013

Tội ác Cộng Sản – Học tập cải tạo (Trại Tù Cải Tạo Địa ngục trần gian) và kinh tế mới.

Icon_Symbols_Nations_ĐCS_HCM OthersBài viết của: Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.

Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps …)

“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam

Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.
Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói – Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.
Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác – Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:
• Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.
• Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.
• Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
• Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.
Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần – Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:
– Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) – Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh.
Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”
– Tự phê (Confession) – Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.
“Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)
Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.
Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số “Trại Tù Cải Tạo”
Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “…According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau:
• 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
• 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”
• Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ.

Thời Gian “Cải tạo”
Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.
Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…”

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. “… Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochina wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…”

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…
Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng “HO” không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: “Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một “Chiến Dịch Nhân Đạo/HO” để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…” Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh “HO” để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo” là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh “tù cải tạo/HO” phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ “cải tạo” của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có “nợ máu” với nhân dân nên các anh phải đi “cải tạo,” và khi tự gọi mình là “tù cải tạo” tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một “HO”- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người “tù cải tạo” – là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California

****************************************************************************************************************

Chính sách “Tập trung cải tạo”

Lời nói đầu :
Bài sau đây được viết theo Vũ Băng Sơn, một cựu tù nhân “cải tạo”.
Sau 30/4/1975, có vào khoảng từ 500,000 (theo lời Mai Chí Thọ) tới 1 triệu nhân viên quân cán chính (theo lời của Nguyễn Hữu Thọ) của VNCH đã “được” đưa đi “cải tạo”.
Tập trung cải tạo là một đặc điểm duy nhất chỉ xảy ra trong thế giới CS mà thôi, vì trong thế giới tự do người ta không cần phải “cải tạo”. Mục đích của nó là Cải Tạo Tư Tưởng, tức là Tẩy Não (Brainwashing). Việc “cải tạo tư tưởng này” xảy ra dưới nhiều hình thức, từ học tập chính trị tại phường xã, trường học, cơ sở làm việc, tới việc tập trung vào trại cải tạo và đối tượng là bất cứ ai vừa “được giải phóng”.
Không phải tự nhiên mà CSVN có thể phát minh ra nó : họ đã thừa hưởng từ CS Nga-Tàu cái chính sách cực kỳ tinh vi và hiểm độc nhất nàỵ Vũ Băng Sơn cho biết rằng chính dân miền Bắc, khi nghe đến “tập trung cải tạo”, cũng phải rùng mình, nổi da gà. Bởi vì đây là một cuộc “diệt người, diệt tư tưởng tự do của con người”. “Cải tạo tư tưởng” của CSVN không ồn ào như kiểu Pol Pot, mà thầm lặng nhưng có hiệu quả tối đa. Ðó là một cuộc “tắm máu” (bloobath) thật sự, được lồng vào bằng những mỹ từ đẹp đẽ và lộng ngôn. Do đó, người ngoại quốc không tài nào có thể thấy đầy đủ mức độ độc ác của nó để qui cho CSVN tội diệt chủng như họ đã thấy ở Cam-bốt từ 1975-1978, vì CSVN còn khôn hơn Khmer đỏ rất nhiều.

——oOo—–

Chính sách “Tập trung cải tạo” là gì ?

Vũ Băng Sơn

Chính sách “tập trung cải tạo” đã có từ năm 1945 khi CSVN làm chủ tình hình miền Bắc. Những ai ở trong các trại Thanh Phong, Thanh Lâm đều chứng kiến 18 gia đình được tập trung cải tạo đã trải qua 3 thế hệ, đời cha, con và cháu, bởi người bố đã từng làm việc thời Pháp thuộc, nên đời con cháu vẫn tiếp tục theo bố đi cải tạo, tập trung cho đủ bộ. Cứ 5 năm một lần, các gia đình này được chỉ định khai phá một hòn núi không người sát biên giới Lào-Việt, tự mưu sinh và không được một sự trợ giúp nào của CS. Sau 5 năm, lại bị tiếp tục chỉ định khẩn hoang một hòn núi khác, dĩ nhiên ngày càng thê thảm hơn. Có 2 vợ chồng đảng viên được chỉ định đi sát và thực hiện châm ngôn, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với những người bất hạnh này trên 30 năm nay và chắc hiện vẫn còn tiếp tục…
Khi VNCH bị CS Bắc Việt chiếm lấy vào 30/4/1975, chính sách “tập trung cải tạo” được hình thành qua các giai đoạn sau :

I. Giai đoạn trấn an quần chúng và những người cộng tác với chế độ VNCH.
Khi chưa đủ lực lượng và khả năng kiểm soát được Nam VN, tập đoàn CS Hà Nội cùng tay sai là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN khuyến dụ bằng cách dùng chữ “học tập và cải tạo”; đến giai đoạn cuối cùng thì CS mới gọi đích danh là “tập trung cải tạo”.
1. Ngụy tạo bằng chính sách 10 điểm của chính phủ cò mồi “Chính phủ Cách Mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”, Cộng Sản khuyến dụ các viên chức chính quyền và quân đội nên hợp tác với CS có kèm theo những bảo đảm cần thiết.
2. Phát động chiến dịch “học tập” về chủ trương, chính sách của cái gọi là “Chính quyền Cách mạng” : Các đợt học tập 3 ngày hay 1 tuần dành cho mọi tầng lớp quần chúng, đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, báo chí, tư pháp, lập pháp, hành chánh và quân đội, và họ sẽ được cấp giấy chứng nhận sau mỗi đợt học tập và trả về nguyên quán nhằm mục đích giải tỏa áp lực dân số tại Saigon và những nơi thị tứ, giao cho địa phương kiểm soát, một mặt đánh trúng tâm lý những người ở lại muốn sống một cuộc sống bình an dù chỉ là trong ảo tưởng.
3. Trần Văn Trà ra thông cáo chính thức yêu cầu chính quyền, quân đội, các thành phần dân cư, đoàn thể, đảng phái phải trình diện ở những địa điểm quy định sẵn trong các ngày 13, 14, 15/6/1975, đồng thời mang theo 21 kg gạo trong thời gian 1 tháng đối với các viên chức chính quyền, đảng phái; riêng đối với quân đội, trong 15 ngàỵ Thông cáo gây cho mọi người một ảo tưởng là thời gian học tập có giới hạn, đó là động cơ khuyến khích tất cả mọi thành phần hăng hái phải ra trình diện đông đủ.

II. Giai đoạn tiêu diệt :
Chỉ nhìn riêng khía cạnh này, trừ Saigon, Gia Định và một số tỉnh lỵ, thị xã lớn thì CS chưa lộ nguyên hình, nhưng ở các nơi khác CS giết người như ngoé vào nửa đêm, tàn sát gia đình nạn nhân, xử tử hình một số dân biểu, đảng phái, quân đội và cảnh sát một cách công khai không cần che đậy, mà thủ phạm chính là Việt Cộng thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Người ta không biết thật rõ số người bị CS địa phương giết là bao nhiêụ
Hầu hết những người trình diện tại trung ương và các vùng lân cận được đưa về Long Thành (thành phần dân sự, cảnh sát), Long Giao (quân đội) hoặc Suối Máu, K3, K4 (Long Khánh).
1. Trong tháng đầu tiên, sửa chữa doanh trại, thành lập hội trường, mở “căn tin” mua bán thực phẩm và đồ dùng, có nơi còn gọi tư nhân thầu ăn uống, cửa trại và cửa phòng không bị đóng để tạo một không khí đây là trường cải tạo, mọi người đến đây để học tập thông suốt đường lốị Chỉ trừ thành phần bị bắt trước và sau 30/4/75 thì bị lao động khổ sai, bị đóng cửa phòng giam ban đêm. Danh từ được gọi với nhau là “cải tạo viên”, hoặc “trại viên”.
2. Màn “không đánh mà khai” bắt đầụ Ngoài phần sơ yếu lý lịch, buộc phải kê khai những việc làm bằng những sự kiện chính xác, gây phương hại cho “chính quyền cách mạng” ra sao, đồng thời phải tố cáo ai đã trốn tránh trình diện, và những phần tử “phản động” khác.
Sau đó, toàn thể “lên lớp” để học 10 bài chính trị, mỗi bài phải được thảo luận ở từng “tổ”, lập biên bản và thu hoạch, mục đích là tự tố cáo mình, tố cáo cha mẹ mình, anh em, họ hàng, con cái, bè bạn của mình. Bởi vậy CS tuyên bố huỵch toẹt rằng “một giờ làm việc cho ngụy là có tội đối với cách mạng rồi”.
Tất cả mọi người đều có ảo tưởng một cách khôi hài rằng học xong 10 bài là được đoàn tụ với gia đình, những màn lẩm cẩm đã xảy ra đối với những kẻ nặng nợ với gia đình, nhất là những kẻ yếu lòng. Cho nên có nhiều bài bản thật mùi mẫn, những bài ca con cá sống vì nước được trước tác một cách ngon ợ CS rất khôn ngoan; ngày 2/9/75, họ thả ra một số nhỏ, đó là một đòn tối độc để họ đốc thúc tù nhân còn ở lại phải kê khai thêm, nhất là những hoạt động có liên quan đến phản tình báo móc nối VC, và các gián điệp nằm vùng; mặt khác, việc tự tố cáo chính mình nhằm để trấn áp những hoang man trong hàng ngũ “cải tạo viên” trong khi CS còn đang đối phó với nhiều vấn đề khác. Rồi “cải tạo viên” buộc phải đi lao động khổ sai, vì “chỉ có lao động là cái thước đo lường quá trình cải tạo”.
Lợi dụng yếu điểm ai nấy đều nôn nóng trở về sum họp với gia đình, CS mới đề ra lao dộng là vinh quang, học tập tốt chưa đủ, phải lao động tốt để trở thành con người mới của xã hội mớị Vì đây là một cuộc đổi đời, vân vân và vân vân. Trong khi đó, một số cán bộ từ miền Bắc được đưa vào với bảng hiệu gắng trên ngực “quản lý trại giam”, mọi người mới ngở ngàng thì ra họ bị tù chớ không phải “cải tạo” như CS nói. Rồi bản án 1 năm, 3 năm ra đời. Và được khép vào kỷ luật của một trại giam…
3. Cuối năm 1975 và trong năm 1976, lần lượt những người tù cải tạo được “tập kết” ra Bắc. Họ được chất đống trên những toa xe lửa và những hầm tàu thủy dành cho súc vật; một số sĩ quan cấp Tá bị chết trong những toa xe đó trong khi tay vẫn bị còng chung với người còn ngoắc ngoảị
Đa số quân nhân bị đưa đi khai phá những khu rừng rậm làm “lán” dùng để ngủ ở các trại Yên Bái, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Cổng Nhà Trờị Có các trại đặc dưới quyền Công An thống trị như Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Phú Sơn, Trại 5, Thanh Phong, Thanh Lâm, Thanh Cẩm,….(Thanh Hoá). Mỗi trại mang bí số như 10A, 20A, 30Ạ.., và từ đó màn diệt chủng hay một cuộc tắm máu không tiền khoáng hậu bắt đầu :
3a) Về phương diện an ninh :
– Thiết lập Cán bộ quảng giáo trực tiếp trông coi mỗi Đội, Cán bộ võ trang (còn được gọi là cán bộ súng dài) được tăng cường trong các đội đi lao động.
– Chỉ định Đội trưởng, Đội phó, Tổ trưởng, Tổ phó, đa số thuộc thành phần cấp thấp để điều khiển thành phần cấp Tá, Tướng, Bộ trưởng, nhằm gây sự sâu xé lẫn nhaụ
– Hoạch định một màng lưới ăng-ten chặt chẽ, kiểm soát từng người và báo cáo mỗi ngày với Cán bộ quản giáo hoặc Cán bộ an ninh trại, Cán bộ giáo dục hay Cán bộ trực trại.
– Tổ chức Ban thường trực thi đua mà trưởng ban và một số nhân viên thuộc loại tù hình sự Bắc Việt (tội giết người, ăn cắp, ăn trộm,…), trong đó cũng có một vài người tù chính trị thuộc thành phần có thân nhân với VC hoặc là những phần tử “tiến bộ”, cải tạo tốt, học tập tốt.
– Tất cả các đội đều biệt lập, kín cổng cao tường, tụ tập từ 2 người trở lên là bị phê bình kiểm thảo và đưa đến kỷ luật (biệt giam, kiên giam, hay bị còng một hoặc hai chân, hoặc cả hai cánh tay tùy theo tội trạng).
– Trong “hiện trường lao động” (các chữ trong ngoặc kép là do CS dùng), mỗi lần đi tiểu tiện phải cách xa 10 hoặc 30 m báo cáo Cán bộ quản giáo hay võ trang, tự ý rời khỏi phạm vi đều bị bắn bỏ. Các phòng giam được khóa bằng nhiều lớp khóa vào mỗi buổi chiều sau khi điểm danh với trực trại, và khi mở cũng phải báo cáo quân số với ỵ
3b) Kế hoạch hủy hoại mầm sống :
– Thủ đoạn tẩy não : khi không còn “lên lớp”, thỉnh thoảng Trại trưởng hoặc Cán bộ giáo dục trại, hoặc các Cán bộ từ Bộ Nội Vụ được đưa đến để đề cao chế độ ưu việt (cái nôi của đứa con nít, cái rốn của bà già) để tạo cho mọi người có mặc cảm tội lỗi đối với “chính quyền cách mạng” (“Tạo mặc cảm tội lỗi” là thủ đoạn thường dùng của CS đối với dân chúng và binh sĩ Mỹ; khi gán tội Mỹ đem quân tới Việt Nam để giết người VN chớ không phải giết CS. CS đã tẩy não họ từ phương xa bằng cách lập lờ đánh lận con đen cho dân và CS là một; kết quả là một số người Mỹ ngây thơ đã quay đầu lại chữi chính phủ của họ), đó là tội đáng chết, nhưng nhờ chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà nước và của Đảng nên mới được học tập, lao động cải tạo; vậy cần phải ăn năn hối cải, thành thật khai báo hết tội lỗi của mình và đồng bọn mới có thể trở thành người dân trong chế độ Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Dĩ nhiên luôn luôn có một câu thòng là khi nào làm tốt thì Đảng, Nhà nước và nhân dân mới xét thạ Vì nếu cho về bây giờ thì nhân dân sẽ trả thù vì “các anh là kẻ có nợ máu với nhân dân”. Đoàn tụ gia đình luôn luôn được đào sâu và mục đích là để “giúp đỡ” những kẻ còn ngoan cố hay chưa tiến bộ. Cứ mỗi tháng, mỗi quý (tam cá nguyệt; 3 tháng), 6 tháng đầu năm, 6 tháng cuối năm, đều làm bản kiểm điểm, chưa kể mỗi lần lên lớp đều làm bản thu hoạch, lập tờ khai lý lịch, khai cả dòng họ và những việc từ lúc mới có trí khôn đến ngày bị bắt.
Ngoài sơ yếu lý lịch, phần nội dung gồm có tư tưởng, học tập, lao động, nội quy và nếp sống văn hóa mới, đặt phương hướng, v.v…Bản tự khai có khi kéo dài đến 400-500 trang giấy là chuyện thường. Dụng đích của CS là lúc nào cũng muốn thần kinh tù nhân căng thẳng đủ để thể xác ngày càng tiều tụỵ Thâm độc hơn nữa, cứ mỗi dêm sau một ngày thụ hình khổ sai, phải “ngồi đồng” để tố cáo lẫn nhau trong lúc làm việc, những sai trái trong cử chỉ, trong lời nóị Buổi họp này do đội trưởng chủ tọa, đôi khi có Cán bộ quản giáọ Tất cả đều được ghi vào biên bản, và cứ mỗi tuần bình bầu cá nhân xuất sắc, trung bình và kém, rồi tù nhân tự đề nghị mức ăn thấp nhất cũng như chịu hình phạt kỷ luật. CS buộc mọi người như cái máy, không cần suy nghĩ, cứ làm theo lệnh, và mặc cảm “mình là kẻ gây nợ máu đối với nhân dân, nên phải cải tạo lâu dài, chấp nhận môi trường tù tội là lẽ sống của đời mình”. Kết quả, có nhiều tù nhân trở nên mất trí nhớ, có những hành động bất bình thường, và lúc nào cũng sợ hãi, coi cán bộ bằng tuổi con cháu như cha mẹ hay thầy của mình.
– Thủ đoạn bức tử : trước hết để biện minh cho hình phạt khổ sai, CS dùng câu : làm ngày chưa xuể, nên phải làm đêm, làm thêm giờ nghỉ. Đốn cây, vạt rừng, đập đá, thu dọn bãi mìn, thay trâu kéo cày, trồng mì trên đồi đá, tất cả đều có “chỉ tiêu”. Tai nạn lao động xảy ra thường xuyên và hàng ngàn người đã gục ngã trong chốn lao tù ở Miền Bắc.
Thứ đến là khẩu phần lương thực phi dinh dưỡng, tạo cho con người cái đói triền miên. Một Đại tá ở K1 Tân Lập đến chết ước gì có một củ mì để ăn cho đã.
Đầu óc, ngay khi nói chuyện với nhau cũng như khi viết thư về gia đình đều ám ảnh bởi cái ăn.
Lý trí và nhân cách bị hủy diệt và buộc phải sống chẳng khác gì một con vật vô tình cảm. CS đặt mức ăn theo giai cấp từ 18 kg cho đội trưởng, tới 15 kg, 12 kg và 9 kg cho các “giai cấp” khác để tạo sự ganh tị. Nhiều khi vì quá đói mà tù nhân đảo lộn tôn ty trật tự, tranh dành phần ăn và rồi thản nhiên trước lời chữi mắng thô lỗ của các tên Cán bộ quản giáo hay võ trang.
Về thuốc men, cái gọi là thuốc dân tộc Xuyên Tâm Liên, cây Mua, Aspirin, Sea trị bá bịnh. Có bịnh phải “khắc phục”, khai bịnh sẽ bị sụt khẩu phần hoặc bị kỷ luật. Mỗi tháng bị vài lần khám xét đồ đạc, gọi là “kiểm tra” hoặc “biên chế” từng đội, từng phân trại, do đó thần kinh của tù nhân luôn luôn bị căng thẳng. Chết hoặc bịnh bị kết tội là trốn trách nhiệm, vô ơn với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Sau hết, không kể số người chết bởi các bịnh rất tầm thường vì thần kinh và thể xác suy nhược trầm trọng, bởi lao động khổ sai, bởi ăn uống để cầm hơi, bởi thuốc men hầu như không có, bởi không đủ sức để chịu đựng nơi rừng thiêng nước độc. Số người sống sót, nếu thần kinh không hư hỏng thì cũng chết một cách bất ngờ vì ăn phải những củ mì luộc mà không thay nước, đó là những độc dược không sớm thì muộn cũng phải tắt thở theo thời gian mà thôị
3c) Gia cảnh tù nhân bị lợi dụng : hủy diệt cả tinh thần lẫn thể xác những người tù chưa đủ, CS còn áp dụng các thủ thuật như sau :
– Kể từ 1977, một số cán bộ CS Miền Bắc vào Nam dùng tiền tài, quyền uy kể cả bạo lực để lấy cho kỳ được vợ của những thành phần cao cấp, đánh trúng tâm lý những người đàn bà khốn khổ này rằng:
(1) tạo ảo ảnh can thiệp chồng sớm được tha về,
(2) khỏi đi kinh tế mới,
(3) cuộc sống khỏi khó khăn,
(4) nhà cửa khỏi bị tịch thu và
(5) không bị ai hăm dọa trả thù.
– Con của “ngụy quyền” là một trong các đối tượng để đưa đi chiến trường Cam-Bốt hoặc biên giới Hoa-Việt. Những người trẻ này đang ở trong một viễn ảnh nghèo đói cùng cực, bởi không được bước chân vào ngưỡng cửa đại học cho dù có xuất sắc. Họ có thể được xét lại nếu đi đầu quân ở 2 chiến trường kể trên. Kết quả là vô số đã chết mất xác, nếu may còn sống thì bị tàn phế (khoảng hơn 100,000 người bị tàn phế và 60,000 bị giết ở chiến trường Kampuchia).
– Gia đình những tù nhân bị đuổi ra khỏi nhà và bắt lên vùng kinh tế mới thiếu thốn trăm bề. Một số đã chết tại đây, một số khác trốn về thành phố sống ở lề đường hoặc dưới hầm cầu. Con gái họ lại rơi vào cảnh làm điếm để giúp mẹ và các em trong khi cha đi biền biệt không về; họ thuộc các nữ sinh của những ngày đi học thơ thới ở nhà trường của miền Nam.
3d) Kế hoạch tiêu diệt một thế hệ : nghe theo lời nói của tên HồChí Minh khát máu “10 năm trồng cây, 100 năm trồng người” — một lưỡi hái của tử thần có một không hai trong lịch sử Việt Nam đau thương, gieo rắc tang tóc và đau khổ cho các thế hệ trong mấy mươi năm qua, CS con cháu của Hồ đã áp dụng lời của “Bác” để biến đổi cả văn học, phong tục, tập quán cho tới kinh tế của VN theo một “tư duy” mới của XHCN).

III. Kết luận :
Trên đây chỉ là những điều khái quát về cải tạọ Chính sách diệt chủng này của CS lại mang tới một hậu quả hoàn toàn trái ngược :
1. Dùng thời gian để tiêu diệt tinh thần lẫn thể xác bằng biện pháp thống trị sắt máu và bạo lực càng nuôi dưỡng thêm lòng căm thù chế độ CS. Hơn nữa, nó càng gây thêm vết dầu loang trong quảng đại quần chúng VN và dư luận thế giới một sự phẫn nộ và ghê tởm hơn bao giờ hết. Kể cả những người trước đây đã từng ca tụng CS là “thiên thần” như Ginette Sagan, Rolland Pierre Paringaux,…họ tuyên bố rằng “Không còn có thể dành sự yên lặng cho Hà Nội được nữa vì sự đàn áp của họ quá trắng trợn”. Chỉ trừ Thương Nghị Sĩ George McGovern, ứng cử viên Tổng Thống, ăn phải bã CS khát máu mới có thể nói ngược mà thôi.
2. Ngoại trừ số thương vong vì già yếu, bịnh tật, đói khát, hình phạt khổ sai, thì theo kết quả điều tra của 2 giáo sư đại học Jackson và Desbarats có ít nhất là 65,000 người đã bị hành quyết từ 1975-1983. Đó là con số rất khiêm nhường, thật ra nó còn ghê gớm hơn nữạ
3. Nói sơ chuyện này, tôi (Vũ Băng Sơn) không nhằm để kêu gọi lòng thương xót của các bạn, nhưng chỉ muốn thế giới biết rằng CSVN đã tiến hành cuộc thảm sát những người đã đầu hàng họ. Có hơn 500,000 tù binh bị bắt sau 1975 đã ngụp lặng trong biển máu cũng như đa số người Việt Nam còn lại.
Trường Chinh đã nói rõ trong một phiên họp của Bộ Chính Trị : “Lỗi lầm của chúng ta là không thể giết hết bọn ngụy quân ngụy quyền cùng gia đình bọn chúng, nên giờ đây ta đã gặp nhiều khó khăn từ năm 1975 đến nay. Nếu cần, chúng ta có thể giết 10, 20, 30 hoặc 40 triệu kẻ chống đối, thì chế độ ta sẽ không gặp nhièu khó khăn như thế.”
Ngoài kia tôi còn nghe văng vẳng những tiếng kêu gào khi xưa của những kẻ phản chiến, những hành động thiếu suy nghĩ của những người “ăn cơm quốc gia, thờ ma CS” thay vì ráng giữ gìn chính nghĩa lại đi nối giáo cho CS. Theo thời gian, nghĩ lại thì đó chỉ là những người làm tro hề không công cho CS, bởi vì CS có mang ơn họ đâu, mà còn quay lại hại họ nữa. Bây giờ các vị đó ở đâu rồi ? Xin mời các vị hãy sống với những tù nhân cùng khổ như chúng tôi chỉ vài tiếng đồng hồ thôi tại bất cứ trại tập trung nào, đảm bảo sẽ…ô hô ai tai và tẩu quả nhập ma ngay.

Vũ Băng Sơn

***********************************************

Lời cuối (tác giả:Nguyễn Cao Quyền):

Quyết định của Cộng Sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lý ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để hòa hợp hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nưốc.

Giữa tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đã bày tỏ ý muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rõ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán.

Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, tháng 8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5 tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á tành một khu vực phồn vinh.

Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là 35 triệu Mỹ Kim. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội còn là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.
Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách cải tạo sai lầm thì nhân dân hai miền Nam Bắc đã cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hoà hợp hòa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.

Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đã xé bỏ hiệp định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó. Hậu qủa của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch. Cắt đất dângTrung Quốc để duy trì mạng sống chính trị và qùy gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một thòi kỳ nhục nhã như hiện nay.

Đối với Hoa Kỳ, bỏ rỏi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan rã khối cộng sản là một vấn đề chiến lược. Tiến hành chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm. Đứng về phương diện quyền lơi cuả Hiệp Chủng Quốc mà xét thì trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi.

About these ads

Tội ác Cộng Sản – Học tập cải tạo (Trại Tù Cải Tạo Địa ngục trần gian) và kinh tế mới.

Icon_Symbols_Nations_ĐCS_HCM OthersBài viết của: Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.

Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps …)

“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam

Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.
Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói – Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.
Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác – Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:
• Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.
• Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.
• Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
• Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.
Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần – Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:
– Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) – Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh.
Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”
– Tự phê (Confession) – Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.
“Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)
Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.
Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số “Trại Tù Cải Tạo”
Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “…According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau:
• 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
• 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”
• Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ.

Thời Gian “Cải tạo”
Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.
Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…”

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. “… Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochina wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…”

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…
Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng “HO” không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: “Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một “Chiến Dịch Nhân Đạo/HO” để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…” Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh “HO” để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo” là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh “tù cải tạo/HO” phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ “cải tạo” của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có “nợ máu” với nhân dân nên các anh phải đi “cải tạo,” và khi tự gọi mình là “tù cải tạo” tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một “HO”- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người “tù cải tạo” – là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California

****************************************************************************************************************

Chính sách “Tập trung cải tạo”

Lời nói đầu :
Bài sau đây được viết theo Vũ Băng Sơn, một cựu tù nhân “cải tạo”.
Sau 30/4/1975, có vào khoảng từ 500,000 (theo lời Mai Chí Thọ) tới 1 triệu nhân viên quân cán chính (theo lời của Nguyễn Hữu Thọ) của VNCH đã “được” đưa đi “cải tạo”.
Tập trung cải tạo là một đặc điểm duy nhất chỉ xảy ra trong thế giới CS mà thôi, vì trong thế giới tự do người ta không cần phải “cải tạo”. Mục đích của nó là Cải Tạo Tư Tưởng, tức là Tẩy Não (Brainwashing). Việc “cải tạo tư tưởng này” xảy ra dưới nhiều hình thức, từ học tập chính trị tại phường xã, trường học, cơ sở làm việc, tới việc tập trung vào trại cải tạo và đối tượng là bất cứ ai vừa “được giải phóng”.
Không phải tự nhiên mà CSVN có thể phát minh ra nó : họ đã thừa hưởng từ CS Nga-Tàu cái chính sách cực kỳ tinh vi và hiểm độc nhất nàỵ Vũ Băng Sơn cho biết rằng chính dân miền Bắc, khi nghe đến “tập trung cải tạo”, cũng phải rùng mình, nổi da gà. Bởi vì đây là một cuộc “diệt người, diệt tư tưởng tự do của con người”. “Cải tạo tư tưởng” của CSVN không ồn ào như kiểu Pol Pot, mà thầm lặng nhưng có hiệu quả tối đa. Ðó là một cuộc “tắm máu” (bloobath) thật sự, được lồng vào bằng những mỹ từ đẹp đẽ và lộng ngôn. Do đó, người ngoại quốc không tài nào có thể thấy đầy đủ mức độ độc ác của nó để qui cho CSVN tội diệt chủng như họ đã thấy ở Cam-bốt từ 1975-1978, vì CSVN còn khôn hơn Khmer đỏ rất nhiều.

——oOo—–

Chính sách “Tập trung cải tạo” là gì ?

Vũ Băng Sơn

Chính sách “tập trung cải tạo” đã có từ năm 1945 khi CSVN làm chủ tình hình miền Bắc. Những ai ở trong các trại Thanh Phong, Thanh Lâm đều chứng kiến 18 gia đình được tập trung cải tạo đã trải qua 3 thế hệ, đời cha, con và cháu, bởi người bố đã từng làm việc thời Pháp thuộc, nên đời con cháu vẫn tiếp tục theo bố đi cải tạo, tập trung cho đủ bộ. Cứ 5 năm một lần, các gia đình này được chỉ định khai phá một hòn núi không người sát biên giới Lào-Việt, tự mưu sinh và không được một sự trợ giúp nào của CS. Sau 5 năm, lại bị tiếp tục chỉ định khẩn hoang một hòn núi khác, dĩ nhiên ngày càng thê thảm hơn. Có 2 vợ chồng đảng viên được chỉ định đi sát và thực hiện châm ngôn, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với những người bất hạnh này trên 30 năm nay và chắc hiện vẫn còn tiếp tục…
Khi VNCH bị CS Bắc Việt chiếm lấy vào 30/4/1975, chính sách “tập trung cải tạo” được hình thành qua các giai đoạn sau :

I. Giai đoạn trấn an quần chúng và những người cộng tác với chế độ VNCH.
Khi chưa đủ lực lượng và khả năng kiểm soát được Nam VN, tập đoàn CS Hà Nội cùng tay sai là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN khuyến dụ bằng cách dùng chữ “học tập và cải tạo”; đến giai đoạn cuối cùng thì CS mới gọi đích danh là “tập trung cải tạo”.
1. Ngụy tạo bằng chính sách 10 điểm của chính phủ cò mồi “Chính phủ Cách Mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”, Cộng Sản khuyến dụ các viên chức chính quyền và quân đội nên hợp tác với CS có kèm theo những bảo đảm cần thiết.
2. Phát động chiến dịch “học tập” về chủ trương, chính sách của cái gọi là “Chính quyền Cách mạng” : Các đợt học tập 3 ngày hay 1 tuần dành cho mọi tầng lớp quần chúng, đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, báo chí, tư pháp, lập pháp, hành chánh và quân đội, và họ sẽ được cấp giấy chứng nhận sau mỗi đợt học tập và trả về nguyên quán nhằm mục đích giải tỏa áp lực dân số tại Saigon và những nơi thị tứ, giao cho địa phương kiểm soát, một mặt đánh trúng tâm lý những người ở lại muốn sống một cuộc sống bình an dù chỉ là trong ảo tưởng.
3. Trần Văn Trà ra thông cáo chính thức yêu cầu chính quyền, quân đội, các thành phần dân cư, đoàn thể, đảng phái phải trình diện ở những địa điểm quy định sẵn trong các ngày 13, 14, 15/6/1975, đồng thời mang theo 21 kg gạo trong thời gian 1 tháng đối với các viên chức chính quyền, đảng phái; riêng đối với quân đội, trong 15 ngàỵ Thông cáo gây cho mọi người một ảo tưởng là thời gian học tập có giới hạn, đó là động cơ khuyến khích tất cả mọi thành phần hăng hái phải ra trình diện đông đủ.

II. Giai đoạn tiêu diệt :
Chỉ nhìn riêng khía cạnh này, trừ Saigon, Gia Định và một số tỉnh lỵ, thị xã lớn thì CS chưa lộ nguyên hình, nhưng ở các nơi khác CS giết người như ngoé vào nửa đêm, tàn sát gia đình nạn nhân, xử tử hình một số dân biểu, đảng phái, quân đội và cảnh sát một cách công khai không cần che đậy, mà thủ phạm chính là Việt Cộng thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Người ta không biết thật rõ số người bị CS địa phương giết là bao nhiêụ
Hầu hết những người trình diện tại trung ương và các vùng lân cận được đưa về Long Thành (thành phần dân sự, cảnh sát), Long Giao (quân đội) hoặc Suối Máu, K3, K4 (Long Khánh).
1. Trong tháng đầu tiên, sửa chữa doanh trại, thành lập hội trường, mở “căn tin” mua bán thực phẩm và đồ dùng, có nơi còn gọi tư nhân thầu ăn uống, cửa trại và cửa phòng không bị đóng để tạo một không khí đây là trường cải tạo, mọi người đến đây để học tập thông suốt đường lốị Chỉ trừ thành phần bị bắt trước và sau 30/4/75 thì bị lao động khổ sai, bị đóng cửa phòng giam ban đêm. Danh từ được gọi với nhau là “cải tạo viên”, hoặc “trại viên”.
2. Màn “không đánh mà khai” bắt đầụ Ngoài phần sơ yếu lý lịch, buộc phải kê khai những việc làm bằng những sự kiện chính xác, gây phương hại cho “chính quyền cách mạng” ra sao, đồng thời phải tố cáo ai đã trốn tránh trình diện, và những phần tử “phản động” khác.
Sau đó, toàn thể “lên lớp” để học 10 bài chính trị, mỗi bài phải được thảo luận ở từng “tổ”, lập biên bản và thu hoạch, mục đích là tự tố cáo mình, tố cáo cha mẹ mình, anh em, họ hàng, con cái, bè bạn của mình. Bởi vậy CS tuyên bố huỵch toẹt rằng “một giờ làm việc cho ngụy là có tội đối với cách mạng rồi”.
Tất cả mọi người đều có ảo tưởng một cách khôi hài rằng học xong 10 bài là được đoàn tụ với gia đình, những màn lẩm cẩm đã xảy ra đối với những kẻ nặng nợ với gia đình, nhất là những kẻ yếu lòng. Cho nên có nhiều bài bản thật mùi mẫn, những bài ca con cá sống vì nước được trước tác một cách ngon ợ CS rất khôn ngoan; ngày 2/9/75, họ thả ra một số nhỏ, đó là một đòn tối độc để họ đốc thúc tù nhân còn ở lại phải kê khai thêm, nhất là những hoạt động có liên quan đến phản tình báo móc nối VC, và các gián điệp nằm vùng; mặt khác, việc tự tố cáo chính mình nhằm để trấn áp những hoang man trong hàng ngũ “cải tạo viên” trong khi CS còn đang đối phó với nhiều vấn đề khác. Rồi “cải tạo viên” buộc phải đi lao động khổ sai, vì “chỉ có lao động là cái thước đo lường quá trình cải tạo”.
Lợi dụng yếu điểm ai nấy đều nôn nóng trở về sum họp với gia đình, CS mới đề ra lao dộng là vinh quang, học tập tốt chưa đủ, phải lao động tốt để trở thành con người mới của xã hội mớị Vì đây là một cuộc đổi đời, vân vân và vân vân. Trong khi đó, một số cán bộ từ miền Bắc được đưa vào với bảng hiệu gắng trên ngực “quản lý trại giam”, mọi người mới ngở ngàng thì ra họ bị tù chớ không phải “cải tạo” như CS nói. Rồi bản án 1 năm, 3 năm ra đời. Và được khép vào kỷ luật của một trại giam…
3. Cuối năm 1975 và trong năm 1976, lần lượt những người tù cải tạo được “tập kết” ra Bắc. Họ được chất đống trên những toa xe lửa và những hầm tàu thủy dành cho súc vật; một số sĩ quan cấp Tá bị chết trong những toa xe đó trong khi tay vẫn bị còng chung với người còn ngoắc ngoảị
Đa số quân nhân bị đưa đi khai phá những khu rừng rậm làm “lán” dùng để ngủ ở các trại Yên Bái, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Cổng Nhà Trờị Có các trại đặc dưới quyền Công An thống trị như Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Phú Sơn, Trại 5, Thanh Phong, Thanh Lâm, Thanh Cẩm,….(Thanh Hoá). Mỗi trại mang bí số như 10A, 20A, 30Ạ.., và từ đó màn diệt chủng hay một cuộc tắm máu không tiền khoáng hậu bắt đầu :
3a) Về phương diện an ninh :
– Thiết lập Cán bộ quảng giáo trực tiếp trông coi mỗi Đội, Cán bộ võ trang (còn được gọi là cán bộ súng dài) được tăng cường trong các đội đi lao động.
– Chỉ định Đội trưởng, Đội phó, Tổ trưởng, Tổ phó, đa số thuộc thành phần cấp thấp để điều khiển thành phần cấp Tá, Tướng, Bộ trưởng, nhằm gây sự sâu xé lẫn nhaụ
– Hoạch định một màng lưới ăng-ten chặt chẽ, kiểm soát từng người và báo cáo mỗi ngày với Cán bộ quản giáo hoặc Cán bộ an ninh trại, Cán bộ giáo dục hay Cán bộ trực trại.
– Tổ chức Ban thường trực thi đua mà trưởng ban và một số nhân viên thuộc loại tù hình sự Bắc Việt (tội giết người, ăn cắp, ăn trộm,…), trong đó cũng có một vài người tù chính trị thuộc thành phần có thân nhân với VC hoặc là những phần tử “tiến bộ”, cải tạo tốt, học tập tốt.
– Tất cả các đội đều biệt lập, kín cổng cao tường, tụ tập từ 2 người trở lên là bị phê bình kiểm thảo và đưa đến kỷ luật (biệt giam, kiên giam, hay bị còng một hoặc hai chân, hoặc cả hai cánh tay tùy theo tội trạng).
– Trong “hiện trường lao động” (các chữ trong ngoặc kép là do CS dùng), mỗi lần đi tiểu tiện phải cách xa 10 hoặc 30 m báo cáo Cán bộ quản giáo hay võ trang, tự ý rời khỏi phạm vi đều bị bắn bỏ. Các phòng giam được khóa bằng nhiều lớp khóa vào mỗi buổi chiều sau khi điểm danh với trực trại, và khi mở cũng phải báo cáo quân số với ỵ
3b) Kế hoạch hủy hoại mầm sống :
– Thủ đoạn tẩy não : khi không còn “lên lớp”, thỉnh thoảng Trại trưởng hoặc Cán bộ giáo dục trại, hoặc các Cán bộ từ Bộ Nội Vụ được đưa đến để đề cao chế độ ưu việt (cái nôi của đứa con nít, cái rốn của bà già) để tạo cho mọi người có mặc cảm tội lỗi đối với “chính quyền cách mạng” (“Tạo mặc cảm tội lỗi” là thủ đoạn thường dùng của CS đối với dân chúng và binh sĩ Mỹ; khi gán tội Mỹ đem quân tới Việt Nam để giết người VN chớ không phải giết CS. CS đã tẩy não họ từ phương xa bằng cách lập lờ đánh lận con đen cho dân và CS là một; kết quả là một số người Mỹ ngây thơ đã quay đầu lại chữi chính phủ của họ), đó là tội đáng chết, nhưng nhờ chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà nước và của Đảng nên mới được học tập, lao động cải tạo; vậy cần phải ăn năn hối cải, thành thật khai báo hết tội lỗi của mình và đồng bọn mới có thể trở thành người dân trong chế độ Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Dĩ nhiên luôn luôn có một câu thòng là khi nào làm tốt thì Đảng, Nhà nước và nhân dân mới xét thạ Vì nếu cho về bây giờ thì nhân dân sẽ trả thù vì “các anh là kẻ có nợ máu với nhân dân”. Đoàn tụ gia đình luôn luôn được đào sâu và mục đích là để “giúp đỡ” những kẻ còn ngoan cố hay chưa tiến bộ. Cứ mỗi tháng, mỗi quý (tam cá nguyệt; 3 tháng), 6 tháng đầu năm, 6 tháng cuối năm, đều làm bản kiểm điểm, chưa kể mỗi lần lên lớp đều làm bản thu hoạch, lập tờ khai lý lịch, khai cả dòng họ và những việc từ lúc mới có trí khôn đến ngày bị bắt.
Ngoài sơ yếu lý lịch, phần nội dung gồm có tư tưởng, học tập, lao động, nội quy và nếp sống văn hóa mới, đặt phương hướng, v.v…Bản tự khai có khi kéo dài đến 400-500 trang giấy là chuyện thường. Dụng đích của CS là lúc nào cũng muốn thần kinh tù nhân căng thẳng đủ để thể xác ngày càng tiều tụỵ Thâm độc hơn nữa, cứ mỗi dêm sau một ngày thụ hình khổ sai, phải “ngồi đồng” để tố cáo lẫn nhau trong lúc làm việc, những sai trái trong cử chỉ, trong lời nóị Buổi họp này do đội trưởng chủ tọa, đôi khi có Cán bộ quản giáọ Tất cả đều được ghi vào biên bản, và cứ mỗi tuần bình bầu cá nhân xuất sắc, trung bình và kém, rồi tù nhân tự đề nghị mức ăn thấp nhất cũng như chịu hình phạt kỷ luật. CS buộc mọi người như cái máy, không cần suy nghĩ, cứ làm theo lệnh, và mặc cảm “mình là kẻ gây nợ máu đối với nhân dân, nên phải cải tạo lâu dài, chấp nhận môi trường tù tội là lẽ sống của đời mình”. Kết quả, có nhiều tù nhân trở nên mất trí nhớ, có những hành động bất bình thường, và lúc nào cũng sợ hãi, coi cán bộ bằng tuổi con cháu như cha mẹ hay thầy của mình.
– Thủ đoạn bức tử : trước hết để biện minh cho hình phạt khổ sai, CS dùng câu : làm ngày chưa xuể, nên phải làm đêm, làm thêm giờ nghỉ. Đốn cây, vạt rừng, đập đá, thu dọn bãi mìn, thay trâu kéo cày, trồng mì trên đồi đá, tất cả đều có “chỉ tiêu”. Tai nạn lao động xảy ra thường xuyên và hàng ngàn người đã gục ngã trong chốn lao tù ở Miền Bắc.
Thứ đến là khẩu phần lương thực phi dinh dưỡng, tạo cho con người cái đói triền miên. Một Đại tá ở K1 Tân Lập đến chết ước gì có một củ mì để ăn cho đã.
Đầu óc, ngay khi nói chuyện với nhau cũng như khi viết thư về gia đình đều ám ảnh bởi cái ăn.
Lý trí và nhân cách bị hủy diệt và buộc phải sống chẳng khác gì một con vật vô tình cảm. CS đặt mức ăn theo giai cấp từ 18 kg cho đội trưởng, tới 15 kg, 12 kg và 9 kg cho các “giai cấp” khác để tạo sự ganh tị. Nhiều khi vì quá đói mà tù nhân đảo lộn tôn ty trật tự, tranh dành phần ăn và rồi thản nhiên trước lời chữi mắng thô lỗ của các tên Cán bộ quản giáo hay võ trang.
Về thuốc men, cái gọi là thuốc dân tộc Xuyên Tâm Liên, cây Mua, Aspirin, Sea trị bá bịnh. Có bịnh phải “khắc phục”, khai bịnh sẽ bị sụt khẩu phần hoặc bị kỷ luật. Mỗi tháng bị vài lần khám xét đồ đạc, gọi là “kiểm tra” hoặc “biên chế” từng đội, từng phân trại, do đó thần kinh của tù nhân luôn luôn bị căng thẳng. Chết hoặc bịnh bị kết tội là trốn trách nhiệm, vô ơn với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Sau hết, không kể số người chết bởi các bịnh rất tầm thường vì thần kinh và thể xác suy nhược trầm trọng, bởi lao động khổ sai, bởi ăn uống để cầm hơi, bởi thuốc men hầu như không có, bởi không đủ sức để chịu đựng nơi rừng thiêng nước độc. Số người sống sót, nếu thần kinh không hư hỏng thì cũng chết một cách bất ngờ vì ăn phải những củ mì luộc mà không thay nước, đó là những độc dược không sớm thì muộn cũng phải tắt thở theo thời gian mà thôị
3c) Gia cảnh tù nhân bị lợi dụng : hủy diệt cả tinh thần lẫn thể xác những người tù chưa đủ, CS còn áp dụng các thủ thuật như sau :
– Kể từ 1977, một số cán bộ CS Miền Bắc vào Nam dùng tiền tài, quyền uy kể cả bạo lực để lấy cho kỳ được vợ của những thành phần cao cấp, đánh trúng tâm lý những người đàn bà khốn khổ này rằng:
(1) tạo ảo ảnh can thiệp chồng sớm được tha về,
(2) khỏi đi kinh tế mới,
(3) cuộc sống khỏi khó khăn,
(4) nhà cửa khỏi bị tịch thu và
(5) không bị ai hăm dọa trả thù.
– Con của “ngụy quyền” là một trong các đối tượng để đưa đi chiến trường Cam-Bốt hoặc biên giới Hoa-Việt. Những người trẻ này đang ở trong một viễn ảnh nghèo đói cùng cực, bởi không được bước chân vào ngưỡng cửa đại học cho dù có xuất sắc. Họ có thể được xét lại nếu đi đầu quân ở 2 chiến trường kể trên. Kết quả là vô số đã chết mất xác, nếu may còn sống thì bị tàn phế (khoảng hơn 100,000 người bị tàn phế và 60,000 bị giết ở chiến trường Kampuchia).
– Gia đình những tù nhân bị đuổi ra khỏi nhà và bắt lên vùng kinh tế mới thiếu thốn trăm bề. Một số đã chết tại đây, một số khác trốn về thành phố sống ở lề đường hoặc dưới hầm cầu. Con gái họ lại rơi vào cảnh làm điếm để giúp mẹ và các em trong khi cha đi biền biệt không về; họ thuộc các nữ sinh của những ngày đi học thơ thới ở nhà trường của miền Nam.
3d) Kế hoạch tiêu diệt một thế hệ : nghe theo lời nói của tên HồChí Minh khát máu “10 năm trồng cây, 100 năm trồng người” — một lưỡi hái của tử thần có một không hai trong lịch sử Việt Nam đau thương, gieo rắc tang tóc và đau khổ cho các thế hệ trong mấy mươi năm qua, CS con cháu của Hồ đã áp dụng lời của “Bác” để biến đổi cả văn học, phong tục, tập quán cho tới kinh tế của VN theo một “tư duy” mới của XHCN).

III. Kết luận :
Trên đây chỉ là những điều khái quát về cải tạọ Chính sách diệt chủng này của CS lại mang tới một hậu quả hoàn toàn trái ngược :
1. Dùng thời gian để tiêu diệt tinh thần lẫn thể xác bằng biện pháp thống trị sắt máu và bạo lực càng nuôi dưỡng thêm lòng căm thù chế độ CS. Hơn nữa, nó càng gây thêm vết dầu loang trong quảng đại quần chúng VN và dư luận thế giới một sự phẫn nộ và ghê tởm hơn bao giờ hết. Kể cả những người trước đây đã từng ca tụng CS là “thiên thần” như Ginette Sagan, Rolland Pierre Paringaux,…họ tuyên bố rằng “Không còn có thể dành sự yên lặng cho Hà Nội được nữa vì sự đàn áp của họ quá trắng trợn”. Chỉ trừ Thương Nghị Sĩ George McGovern, ứng cử viên Tổng Thống, ăn phải bã CS khát máu mới có thể nói ngược mà thôi.
2. Ngoại trừ số thương vong vì già yếu, bịnh tật, đói khát, hình phạt khổ sai, thì theo kết quả điều tra của 2 giáo sư đại học Jackson và Desbarats có ít nhất là 65,000 người đã bị hành quyết từ 1975-1983. Đó là con số rất khiêm nhường, thật ra nó còn ghê gớm hơn nữạ
3. Nói sơ chuyện này, tôi (Vũ Băng Sơn) không nhằm để kêu gọi lòng thương xót của các bạn, nhưng chỉ muốn thế giới biết rằng CSVN đã tiến hành cuộc thảm sát những người đã đầu hàng họ. Có hơn 500,000 tù binh bị bắt sau 1975 đã ngụp lặng trong biển máu cũng như đa số người Việt Nam còn lại.
Trường Chinh đã nói rõ trong một phiên họp của Bộ Chính Trị : “Lỗi lầm của chúng ta là không thể giết hết bọn ngụy quân ngụy quyền cùng gia đình bọn chúng, nên giờ đây ta đã gặp nhiều khó khăn từ năm 1975 đến nay. Nếu cần, chúng ta có thể giết 10, 20, 30 hoặc 40 triệu kẻ chống đối, thì chế độ ta sẽ không gặp nhièu khó khăn như thế.”
Ngoài kia tôi còn nghe văng vẳng những tiếng kêu gào khi xưa của những kẻ phản chiến, những hành động thiếu suy nghĩ của những người “ăn cơm quốc gia, thờ ma CS” thay vì ráng giữ gìn chính nghĩa lại đi nối giáo cho CS. Theo thời gian, nghĩ lại thì đó chỉ là những người làm tro hề không công cho CS, bởi vì CS có mang ơn họ đâu, mà còn quay lại hại họ nữa. Bây giờ các vị đó ở đâu rồi ? Xin mời các vị hãy sống với những tù nhân cùng khổ như chúng tôi chỉ vài tiếng đồng hồ thôi tại bất cứ trại tập trung nào, đảm bảo sẽ…ô hô ai tai và tẩu quả nhập ma ngay.

Vũ Băng Sơn

***********************************************

Lời cuối (tác giả:Nguyễn Cao Quyền):

Quyết định của Cộng Sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lý ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để hòa hợp hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nưốc.

Giữa tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đã bày tỏ ý muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rõ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán.

Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, tháng 8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5 tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á tành một khu vực phồn vinh.

Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là 35 triệu Mỹ Kim. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội còn là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.
Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách cải tạo sai lầm thì nhân dân hai miền Nam Bắc đã cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hoà hợp hòa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.

Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đã xé bỏ hiệp định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó. Hậu qủa của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch. Cắt đất dângTrung Quốc để duy trì mạng sống chính trị và qùy gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một thòi kỳ nhục nhã như hiện nay.

Đối với Hoa Kỳ, bỏ rỏi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan rã khối cộng sản là một vấn đề chiến lược. Tiến hành chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm. Đứng về phương diện quyền lơi cuả Hiệp Chủng Quốc mà xét thì trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi.

4302013

Tội ác Cộng Sản – Học tập cải tạo (Trại Tù Cải Tạo Địa ngục trần gian) và kinh tế mới.

Icon_Symbols_Nations_ĐCS_HCM OthersBài viết của: Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California

Sau khi chiếm được chính quyền tại Miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, Hồ Chí Minh đã bê nguyên cái mô hình “hoc tập cải tạo” của Mao Trạch Đông từ Trung Cộng vào Miền Bắc Việt Nam. Đây là một kế hoạch nằm trong chính sách giết người có chủ đích, có tính toán dưới cái chiêu bài giả hiệu là “cải tạo” những người chống đối chủ nghĩa xã hội để trở thành công dân của nước xã hội chủ nghĩa. Với kế hoạch “cải tạo giết người” này, Hồ Chí Minh đã giết và thủ tiêu 850,000 người dân Miền Bắc trong những cái gọi là “trại học tập cải tạo.”

Sau ngày 30-4-1975, lũ Việt gian cộng sản cũng tiếp tục kế hoạch giết người này, và chúng đã giết và thủ tiêu 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia trong 150 “trại cải tạo” của chúng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

“Học Tập Cải Tạo” Bắt Đầu tại Miền Bắc Việt Nam

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa tại Miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiêu diệt tất cả những thành phần chống đối bằng những kế hoạch khủng bố sắt máu như: Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Cách Ruộng Đất, và đàn áp những phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Trăm Hoa Đua Nở… Số nạn nhân của những vụ khủng bố này không ai biết là bao nhiêu, nhưng có thể ước tính là trên một triệu người, bởi vì chỉ riêng vụ gọi là Cải Cách Ruộng Đất đã có 700,000 nạn nhân. Nói chung, cho tới đầu năm 1960 toàn thể xã hội Miền Bắc đã bị “cào bằng,” không còn giai cấp (social class). Các giai cấp trí, phú, địa, hào đã bị đào tận gốc, trốc tận rễ. Không ai có quyền tư hữu và mọi người đều nghèo khổ, đói rách như nhau. Mỗi năm, mỗi người được phát 2 thước vải thô Nam Định chỉ có thể may được một cái quần hay một cái áo, và hàng tháng được phát 15kg gạo, 200gr đường… Chưa hết, với chủ trương tuyệt diệt những thành phần chống đối, Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho cái quốc hội bù nhìn “ban hành” một nghị quyết về “học tập cải tạo.” Đây là một mẻ lưới “vĩ đại” cuối cùng nhằm vét hết những thành phần có thể gây cản trở cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của y. Các trại “cải tạo” của Hồ Chí Minh được rập theo đúng khuôn mẫu các trại “lao cải” (laogai hay laojiao) của Mao Trạch Đông. . . Theo lệnh của Hồ, quốc hội cộng sản đã “ban hành” một Nghị Quyết (Resolution) về “học tập cải tạo” mang số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961. Căn cứ vào nghị quyết này, hội đồng chính phủ đã “đẻ” ra cái Thông Tư (General Circular) số 121-CP ngày 8-9-1961 để áp dụng trong toàn nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Những nạn nhân bị chi phối bởi cái nghị quyết trên gồm những thành phần sau đây:

1. Tất cả những gián điệp nguy hiểm, những biệt động; tất cả những quân nhân và viên chức hành chánh của chính quyền quốc gia trước đây.
2. Tất cả những nhân vật nòng cốt của các tổ chức và đảng phái đối lập.
3. Tất cả những thành phần ngoan cố thuộc giai cấp bóc lột và những kẻ chống phá cách mạng.
4. Tất cả những kẻ chống phá cách mạng đã bị tù và hết hạn tù nhưng không chịu cải tạo.

Bốn thành phần trên đây đều có một đặc điểm chung mà cộng sản gọi là “những thành phần ngoan cố, chống phá cách mạng.” (obstinate counter-revolutionary elements). Thời gian “cải tạo” được ấn định là 3 năm, nhưng sau 3 năm mà chưa “tiến bộ” thì “cải tạo” thêm 3 năm nữa và cứ như thế tiếp tục tăng thêm 3 năm nữa… cho đến khi nào “học tập tốt, cải tạo tốt” thì về, thực tế là vô thời hạn. Ngoài Hồ Chí Minh và những tên đồng đảng ra, không ai biết được số nạn nhân bị đưa đi “cải tạo” là bao nhiêu; nhưng có thể ước tính là nhiều triệu người, căn cứ vào con số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 850,000 người do Tổ Chức Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản (The Victims of Communism Memorial Foundation) đưa ra: (…When Ho Chi Minh sent 850,000 Vietnamese to their graves in reeducation camps …)

“Học Tập Cải Tạo” tại Miền Nam Việt Nam

Cộng sản ước tính rằng tại Miền Nam có 1,300,000 người đã tham gia vào chính quyền Quốc Gia và Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, và mỗi gia đình có 5 người; như vậy là có 6,500,000 người có nợ máu với chúng. Những người nào phục vụ trong quân đội hay trong chính quyền thì phải đi “cải tạo” và những thành phần còn lại trong gia đình thì phải đi những “khu kinh tế mới;” cũng là một cách đưa đi đầy ải tại những vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh. Đây là một kế hoạch “tắm máu trắng” đã được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của của tập đoàn Việt gian cộng sản.

Một tháng sau khi xâm chiếm được Miền Nam, lũ bán nước cộng sản áp dụng Nghị Quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 và Thông Tư số 121-CP ngày 8-9-1961 của chúng để đưa một triệu quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia chống cộng đi “học tập cải tạo,” thưc chất là đưa đi tù để trả thù (revenge). Đây là cung cách hành xử man rợ của thời trung cổ. Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại [1] (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) như sau:

Tội ác thứ 1 – Tội cầm tù hay tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng, vi phạm những điều luật căn bản của luật pháp quốc tế (Imprisonment or other severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law)
Những người bị cộng sản cầm tù (imprisonment) sau ngày 30-4-1975 là những người bị cộng sản trả thù vì lý do chống cộng tức lý do chính trị. Cộng sản không thể mang những người này – công dân của một một quốc gia độc lập đã bị Việt gian cộng sản, tay sai của Quốc Tế 3, xâm chiếm bằng vũ lực (aggression) một cách phi pháp – ra toà án để kết tội. Cộng sản nguỵ biện một cách láo xược rằng những người này là những tội phạm chiến tranh (war criminals) theo điều 3 của đạo luật về tội chống phá cách mạng ban hành ngày 30-9-1967 của chúng (article 3 of the 30 October 1967 law on counter-revolutionary crimes) và rằng nếu mang ra tòa án xét xử thì những người này có thể bị kết án từ 20 năm tù đến chung thân hay tử hình; nhưng vì chính sách “khoan hồng” và sự “chiếu cố” của đảng nên những người này được đưa đi “học tập cải tạo” thay vì đưa ra toà án xét xử. Đây là một sự nguỵ biện trơ trẽn và lếu láo. Luật rừng rú của đảng cộng sản không có một chút gì gọi là công lý của thời đại văn minh mà chỉ là một công cụ man rợ của thời trung cổ để khủng bố người dân Miền Bắc dưới sự thống trị của chúng, và không thể mang ra áp dụng cho công dân của một quốc gia văn minh như VNCH được.
Tóm lại, giam cầm người không chính thức kết án, không xét xử (imprisonment without formal charge or trial) là vi phạm nhân quyền và là Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 2 – Tội tra tấn, hành hạ (Torture)
Đối với cộng sản, các quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hoà và những người quốc gia chống cộng là kẻ thù không đội trời chung của chúng. Do đó, một khi đã sa cơ rơi vào tay chúng là dịp để chúng trả thù bằng tra tấn và hành hạ. Mục đích trả thù của chúng là nhằm tiêu diệt hết khả năng chống cự của cả thể chất lẫn tinh thần của người tù. Sau đây là vài đòn thù tiêu biểu:

a. Hành hạ bằng cách bỏ đói – Đây là một đòn thù thâm độc nhằm tiêu diệt ý chí của người tù về lâu về dài. Người tù bị đói triền miên, không còn nghĩ đến chuyện gì khác ngoài miếng ăn. Quanh năm suốt tháng không một bữa được ăn no; càng ăn càng đói và đói cho tới khi chết. Ngay cả trong giấc ngủ cũng chỉ mơ đến miếng ăn. Bát cơm và miếng thịt là một ước mơ xa vời. Trên nguyên tắc, mỗi người tù được cấp mỗi tháng 12kg gạo. Nhưng thực tế, người tù chỉ được cấp ngô, khoai, sắn, bo bo… tương đương với 12kg gạo mà chúng gọi là “quy ra gạo.” Ngô, khoai, sắn và bo bo mà chúng cho tù ăn là những thứ được cất giữ lâu ngày trong những kho ẩm thấp, bị mục nát, hư hỏng và đầy sâu bọ. Với số lượng và phẩm chất lương thực như thế, tính ra chỉ cung cấp đươc khoảng từ 600 đến 800 calories một ngày, không đủ để sống cầm hơi, lại phải làm công việc khổ sai nặng nhọc cho nên đã có rất nhiều tù nhân chết vì đói, vì suy dinh dưỡng. Sau đây là một ví dụ: vào cuối năm 1978, tại trại 2 thuộc liên trại 1 Hoàng Liên Sơn có một anh bạn tù vì “lao động” nặng nhọc và suy dinh dưỡng đang nằm chờ chết. Anh em bạn tù thấy vậy bèn hỏi xem anh ta có muốn nhắn gì về cho vợ con hay người thân không? Anh bạn tù sắp chết nói rằng anh ta chỉ muốn được ăn no một bữa khoai mì luộc! Nghe vậy, có một anh tù, vì thương bạn, đã mạo hiểm chui qua hàng rào, đào trộm vài củ khoai mì do chính tù trồng, mang về luộc, rồi mang lên cho bạn thì anh bạn đã chết. Thỉnh thoảng tù cũng được cho ăn cơm nhưng lại độn hai phần sắn hay khoai với một phần gạo, và mỗi bữa ăn, mỗi người được phân phát một chén nhỏ với nước muối. Đến mùa “thu hoạch” ngô và khoai mì do tù trồng, anh em tù cũng được cấp phát ngô và khoai mì luộc. Mỗi bữa ăn được phân phát hai cái bắp ngô, chỉ đếm được chừng 1000 hạt, và khoai mì thì được cấp phát hai khúc, mỗi khúc ngắn độ một gang tay. Còn thịt thì chỉ được cấp phát vào những dịp đặc biệt như ngày tết Nguyên Đán, ngày lễ độc lập của chúng, ngày sinh nhật “Bác”của chúng; mỗi phần ăn được khoảng 100gr thịt heo hay thịt trâu.
Bỏ đói tù là một thủ đoạn tra tấn/hành hạ (torture) đê tiện, có tính toán của cộng sản. Ngoài việc huỷ diệt ý chí của người tù, sự bỏ đói còn nhằm huỷ hoại thể chất của người tù để không còn sức đề kháng chống lại bệnh tật. Do đó, đã có rất nhiều anh em mắc những chứng bệnh do suy dinh dưỡng như lao phổi, kiệt sức, phù thũng, kiết lỵ, ghẻ lở…, và có rất nhiều cái chết rất đau lòng chỉ vì đói, vì suy dinh dưỡng, vì thiếu thuốc men và không được chữa trị…

b. Hành hạ thể xác – Cộng sản vẽ ra khẩu hiệu “lao động là vinh quang.” Chúng bắt người tù phải làm công việc khổ sai nặng nhọc như cuồc đất, đào đất, làm đường, đào ao, chặt cây, đốn gỗ, cưa xẻ, làm gạch…Người tù đã thiếu ăn, kiệt sức; chúng lại đặt ra những chỉ tiêu cao để người tù không thể đạt được, và chúng kiếm cớ để hành hạ thể xác:
• Cắt tiêu chuẩn lương thực từ 12kg xuống còn 9kg và nhốt vào conex, khoá chặt. Người tù bị nhốt như vậy có khi hàng tháng. Với sức nóng mùa Hè và khí lạnh mùa Đông không thể chịu đựng nổi, người tù bị chết vì sức nóng và chết vì rét.
• Cắt tiêu chuẩn lương thực xuống còn 9kg; nhốt trong sà lim; hai chân bị cùm siết chặt đến chảy máu; da thịt bị nhiễm trùng, lở loét; người tù bị nhốt như vậy trong nhiều tháng trời và khi được thả ra chỉ còn da bọc xương, đi không nổi phải bò.
• Chúng cột người tù vào một cây cột và bắt người tù phải đứng thẳng hoặc nằm hay ngồi cả tuần lễ có khi lâu hơn.
• Chúng trói người tù theo kiểu cánh bướm “butterfly style or contorted position” bằng cách bắt một cánh tay bắt chéo qua vai và cánh tay kia bắt qua sau lưng và cột chặt hai ngón tay cái với nhau.
Chúng cột người tù trong tư thế bị trói như vậy vào một cái cột và bắt đứng trong nhiều tiếng đồng hồ. Người tù chịu không nổi, bị ngất xỉu.
Trên đây chỉ là vài cách hành hạ (torture) thể xác tiêu biểu. Cộng sản còn nhiêu kiểu hành hạ độc ác khác như nhốt người tù vào chuồng cọp hay bỏ xuống những giếng nước khô cạn, bỏ hoang lâu ngày, đầy những ổ rắn rết…

c. Tra tấn tinh thần – Mục đích của cộng sản là làm cho tinh thần người tù luôn luôn bị căng thẳng để gây tổn thương trầm trọng cho sức khoẻ thể chất và tinh thần (causing serious injury to physical and mental health) bằng hai phương pháp sau đây:
– Nhồi sọ chính trị (Political indoctrination) – Để mở đầu kế hoạch “cải tạo,” cộng sản bắt người tù phải học 9 bài chính trị. Mỗi bài phải học từ một tuần lễ đến 10 ngày gồm: lên lớp, thảo luận trong tổ, trong đội… Cuối mỗi bài học, người tù phải viết một bản gọi là “thâu hoạch” để nộp cho chúng. Nội dung những bài học gọi là chính trị này chỉ là những bài tuyên truyền rẻ tiền như: Mỹ là tên đầu sỏ đế quốc, là con bạch tuộc có hai vòi: một vòi hút máu nhân dân Mỹ và một vòi hút máu nhân dân nước ngoài. Ta đánh Mỹ cũng là giải phóng cho nhân dân Mỹ thoát khỏi sự bóc lột của đế quốc Mỹ. Đế quốc Mỹ là con hổ giấy. Mỹ giầu nhưng không mạnh. Ta nghèo nhưng ta mạnh.
Dưới sự lãnh đạo của đảng quang vinh, ta đã đánh thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất thời đại. Nguỵ quân, nguỵ quyền là tay sai của đế quốc Mỹ, có nợ máu với nhân dân và là tội phạm chiến tranh…Bài học cuối cùng là bài “lao động là vinh quang” để chuẩn bị bắt người tù làm những việc khổ sai nặng nhọc.
Những bài tuyên truyền rẻ tiền và ấu trĩ trên đây chỉ có thể áp dụng cho người dân bị bưng bít và thiếu học ở Miền Bắc đã bị cộng sản u mê hoá chứ không có tác dụng gì đối với những người đã sống dưới chính thể tự do tại Miền Nam. Tuy nhiên, cái không khí khủng bố của trại tù đã làm cho một số anh em hoang mang và căng thẳng tinh thần. Do đó, đã có một số người tự sát và trốn trại. Những người trốn trại chẳng may bị bắt lại đã bị chúng mang ra toà án nhân dân của chúng kết tội và bắn chết ngay tại chỗ. Đây là đòn khủng bố tinh thần phủ đầu của cộng sản theo kiểu “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”
– Tự phê (Confession) – Tiếp theo phần “học tập chính trị” là phần “tự phê.” Người tù phải viết một bản tiểu sử kể từ khi còn nhỏ cho tới khi vào tù; phải kê khai thành phần giai cấp của dòng họ từ ba đời trước cho đến con cháu sau này; phải kê khai những việc làm trong quá khứ và phải kết tội những việc làm đó là gian ác cũng như phải tự kết tội mình có nợ máu với nhân dân. Người phát thư cũng bị kết tội là đã chuyển thư tín giúp cho bộ máy kìm kẹp của nguỵ quân, nguỵ quyền. Các vị tuyên uý trong quân đội bị kết tội là đã nâng cao tinh thần chiến đấu của nguỵ quân. Các bác sĩ quân y thì bị kết tội là đã chữa trị cho các thương, bệnh binh để mau chóng phục hồi sức chiến đấu của nguỵ quân…Tóm lại, tất cả nguỵ quân, nguỵ quyền đều là những thành phần ác ôn, có nợ máu với nhân dân và phải thành khẩn khai báo những tội ác cũng như phải thành khẩn lao động sản xuất để sớm được đảng cứu xét cho về đứng “trong lòng dân tộc.” Trong suốt thòi gian bị tù, người tù phải liên tiếp viết những bản tự phê; phải moi óc tìm và “phịa” ra những “tội ác” để tự gán và kết tội mình, và nếu bản viết lần sau thiếu vài “tội ác” so với bản viết lần trước, anh sẽ bị kết tội là vẫn còn ngoan cố và thời gian học tập sẽ còn lâu dài.
“Tự phê” một đòn tra tấn tinh thần rất ác ôn. Nó làm cho người tù bị căng thẳng tinh thần triền miên kể cả trong giấc ngủ và đã có một số anh em gần như phát điên, la hét, nói năng lảm nhảm và có người đã tự vẫn…

Tội ác thứ 3 – Tội giết người (Murder)
Những anh em trốn trại bị bắt lại đã bị cộng sản mang ra xử tại toà án nhân dân của chúng và bị bắn chết ngay tại chỗ. Đây là tội ác giết người (murder) bởi vì trên danh nghĩa cũng như theo pháp lý thì những người này chỉ là những người đi học tập. Và khi một người đi học tập mà trốn trại học tập là chuyện rất thường tình, không có tội lỗi gì đối với pháp luật. Nhưng đối với bọn vô nhân tính cộng sản thì không thể nói chuyện lý lẽ với chúng được. Vào một ngày cuối năm 1975, tại trại giam Suối Máu, Biên Hoà, chúng mang hai anh sĩ quan cấp uý trốn trại bị bắt lại ra xử tại toà án nhân dân rừng rú của chúng được thiết lập ngay trong trại giam. Trước khi mang ra xử, chúng đã tra tấn hai anh này đến mềm người, rũ rượi, xụi lơ, không còn biết gì nữa. Ngồi trên ghế xử, tên “chánh án” cùng ba tên đồng đảng giết người mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu, dép râu, nón cối, ngập ngọng giọng Bắc Kỳ 75 đọc xong “bản án giết người” đã viết sẵn và ngay lập tức chúng mang hai anh ra bắn chết cạnh hai cái hố đã đào sẵn. Buổi trưa hôm đó bầu trời Biên Hoà có nắng đẹp, nhưng khi tiếng súng giết người nổ vang lên, mây đen bỗng kéo đến phủ tối cả bầu trời và đổ xuống những hạt mưa nặng hạt. Tất cả anh em trong trại giam lặng lẽ cúi đầu tiễn đưa hai đồng đội sa cơ, thất thế.
Ngoài cách giết người rừng rú trên đây, cộng sản còn chủ tâm giết người bằng nhiều cách khác như cho ăn đói và bắt làm khổ sai nặng nhọc để chết dần chết mòn; để cho chết bệnh, không cung cấp thuốc men, không chữa trị; bắt làm những việc nguy hiểm chết người như gỡ mìn bằng tay không…

Tội ác thứ 4 – Tội bắt làm nô lệ (Enslavement)
Người tù phải sản xuất lương thực như trồng sắn, trồng ngô, trồng khoai, trồng rau…để tự nuôi mình; ngoài ra, còn phải sản xuất hàng hoá, sản phẩm để bán ra ngoài thị trường. Tại các trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn, người tù phải đốn gỗ, cưa xẻ, chặt giang, chặt nứa, chặt vầu… để trại tù mang đi bán. Tai trại tù Hà Sơn Bình có những đội cưa xẻ, đội mộc, đội gạch để sản xuất bàn, ghế, giường, tủ và gạch để bán. Tại trại tù Z30D, Hàm Tân, người tù phải trồng mía, sản xuất đường; mỗi tháng bán hàng tấn đường ra ngoài thị trường… Cộng sản bắt người tù phải làm công việc như người nô lệ thời trung cổ khi phe thắng trận bắt người bên phe thua trận phải làm nô lệ lao động (slave labour) thay vì mang đi giết. Đây là sự vi phạm nhân quyền một cách man rợ của thời trung cổ và là một Tội Ác chống Loài Người.

Tội ác thứ 5- Tội thủ tiêu mất tích người (Enforced disappearance of persons)
Theo các tài liệu nghiên cứu có giá trị hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì số nạn nhân chết trong các “trại cải tạo” là 165,000 người. Hiện nay, ngoài cộng sản ra, không ai biết nơi chôn cất các nạn nhân này. Suốt 33 năm nay, chúng không cho thân nhân cải táng để mang hài cốt về quê quán. Đây là đòn thù vô nhân đạo đối với những nạn nhân đã nằm xuống, và là hành vi độc ác (inhumane act) gây đau khổ tinh thần triền miên, suốt đời cho thân nhân các nạn nhân. Chỉ có một số rất ít, không đáng kể, thân nhân các nạn nhân đã chạy chọt, tìm được cách cải táng người thân của họ; còn tuyệt đại đa số 165,000 người tù chính trị được coi như đã bị thủ tiêu mất tích. Đây là chủ tâm trả thù dã man của cộng sản và là một Tội Ác chống Nhân Loại.

Mới đây nhất, trong cuộc họp với tổng thống George W. Bush tai Bạch Cung ngày 24-6-2008, Việt cộng Nguyễn Tấn Dũng hứa sẽ tiếp tục tìm kiếm và trao cho Hoa Kỳ hài cốt những quân nhân Mỹ mất tích (MIA) trong cuộc chiến VN. Trong khi đó quân cộng sản giết người đang chôn giấu để thủ tiêu mất tích hài cốt của 165,000 quân, cán, chính VNCH và những người quốc gia đã bị chúng sát hại, sau ngày 30-4-1975, trong 150 “trại tù cải tạo” của chúng trên toàn cõi VN. Điều này chứng tỏ rằng lũ Việt gian cộng sản tiếp tục nuôi dưỡng hận thù đối với người Việt quốc gia, ngay cả đối với những người đã nằm xuống, trong khi miệng chúng luôn luôn hô hào hoà hợp hoà giải. “Đừng nghe những gì cộng sản nói; hãy nhìn kỹ những gì chúng làm.”

Ngoài 5 tội ác chống loài người kể trên, vào năm 1980, cộng sản đã có kế hoạch đưa gia đình những người tù từ Miền Nam để cùng với những thân nhân của họ đang bị tù tại Miền Bắc đi “định cư” tại những “khu kinh tế mới” ở Miền Bắc mà thí điểm đầu tiên là khu Thanh Phong/Thanh Cầm, một khu rừng thiêng nước độc tại Miền Bắc, nơi đang có những “trại cải tạo.” Ý đồ của âm mưu thâm hiểm này là đưa đi đầy chung thân, khổ sai, biệt xứ để giết dần, giết mòn tất cả những người tù cùng với gia đình họ. Đây là một kế hoạch diệt chủng (genocide) được nghiên cứu và tính toán rất kỹ của tập đoàn Việt gian cộng sản. Nhưng trời bất dung gian, chúng không thực hiện được âm mưu diệt chủng này vì cục diện thế giới thay đổi dẫn đến sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, và chúng đã phải thả những nạn nhân của chúng ra để họ đi định cư tại Hoa Kỳ với tư cách là những người tỵ nạn chính trị (political refugees).

Cái nghị quyết số 49-NQTVQH ngày 20-6-1961 của tên đại Việt gian bán nước Hồ Chí Minh – cho tới ngày hôm nay vẫn còn hiệu lực – là một dụng cụ đàn áp thâm hiểm nhất để chống lại nhân quyền (the most repressive tool against human rights). Suốt nửa thế kỷ vừa qua, bằng cái nghị quyết phản động này, lũ bán nước cộng sản đã và đang tiếp tục đưa hàng triệu, triệu người Việt Nam đi “học tập cải tạo” mà không qua một thủ tục pháp lý nào cả. Với 5 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) như đã trình bày trên đây, bọn Việt gian cộng sản phải bị mang ra xét xử tại Toà Án Hình Sự Quốc Tế [2] (International Criminal Court).

Số Nạn Nhân Bị Giam Cầm, Số Nạn Nhân Chết và Số “Trại Tù Cải Tạo”
Theo sự ước tính của các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm tại Hoa Kỳ và Âu Châu đã được phổ biến “…According to the published academic studies in the United States and Europe…” thì số nạn nhân và số các “trại tù cải tạo” được ước tính như sau:
• 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử (without formal charge or trial).
• 165,000 nạn nhân chết tại các “trại tù cải tạo.”
• Có ít nhất 150 “trại tù cải tạo” sau khi Sàigòn sụp đổ.

Thời Gian “Cải tạo”
Có những nạn nhân đã bị giam giữ tới 17 năm, và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đại đa số nạn nhân bị giam giữ từ 3 tới 10 năm, và tính trung bình mỗi người phải trải qua 5 trại giam. “…according to the U.S. Department of State, most term ranging from three to 10 years…” Nếu lấy con số trung bình là 7 năm tù cho mỗi người thì số năm tù của một triệu nạn nhân là 7 triệu năm. Đây là một tội ác lịch sử không tiền khoáng hậu của bọn Việt gian cộng sản; vượt xa cả tội ác một ngàn năm của bọn giặc Tầu và một trăm năm bon giặc Tây cộng lại.

Món Nợ của Hoa Kỳ Đối Với Đồng Minh.
Chính phủ Hoa Kỳ công nhận những người bị giam cầm (imprisonment) này là những ngưòi tù chính trị, và đã điều đình với phỉ quyền cộng sản để cho những người này được thả ra để cùng với gia đình đi đinh cư tỵ nạn tại Mỹ ưu tiên theo Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) đối với những người bị giam cầm từ 3 năm trở lên. “…The U.S. government considers reeducation detainees to be political prisoners. In 1989 the Reagan administration entered into an agreement with the Vietnamese government, pursuant to which Vietnam would free all former AVN soldiers and officials held in reeducation camps and allow them to immigrate to the United States… that gives priority to those who spent at least three years in reeducation…”

Hoa Kỳ coi việc đưa những người tù chính trị này sang định cư tỵ nạn tại Mỹ là để trả một món nợ quốc gia đối với đồng minh trong thời chiến. Những người này đã bị giam cầm vì đã cộng tác mật thiết với Hoa Kỳ trong cuộc chiến. “… Resettling this group will be a step toward closing out this nation’s debt to its Indochina wartime allies. “These people have been detained because of their closed association with us during the war,” said Robert Funseth, the senior deputy assistance secretary of state for refugee affairs who spent most of this decade negotiating their resettlement…”

Phải nói môt cách chính sác rằng những người tù chính trị Việt Nam đi định cư tỵ nạn tại Mỹ theo một chương trình ra đi đặc biệt (a special program) nằm trong khuôn khổ của Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program) chứ không phải theo chương trình HO (Humanitarian Operation) tưởng tượng nào cả. Cái gọi là chương trình HO chỉ là sự suy diễn từ các con số thứ tự của các danh sách những người tù chính trị đã được cộng sản trao cho Hoa Kỳ để phỏng vấn đi tỵ nạn tại Mỹ theo thứ tự: H.01, H.02…. H.10, H.11, H.12…
Cộng sản và tay sai có thể lợi dụng cái danh xưng “HO” không Chính không Thực và Lập Lờ này cho những âm mưu đen tối của chúng. Chúng có thể tuyên truyền lếu láo rằng: “Không những đảng đã tha chết cho bọn tội phạm chiến tranh này, mà còn tổ chức cả một “Chiến Dịch Nhân Đạo/HO” để cho đi định cư tại ngoại quốc. Ra đến ngoại quốc đã không biết ơn lại còn đi đấu tranh, biểu tình chống lại đảng…” Sự kiện tù chính trị là một sự kiện có tính chính trị và lịch sử; phải xử dụng Danh cho Chính. Không thể Lộng Giả Thành Chân cái nguỵ danh “HO” để xuyên tạc sự thật lịch.

Học tập cải tạo” là một nguỵ danh để che đậy 5 Tội Ác chống Loài Người (Crimes against Humanity) được dự liệu tại Điều 7 của Đạo Luật Rome (Article 7 of The Rome Statute) của bè lũ Việt gian cộng sản đối với quân, dân, cán, chính VNCH đã bị chúng giam cầm (imprisonment) một cách phi pháp sau ngày 30-4-1975. Đây cũng là một tội ác có tính lịch sử của lũ Việt gian cộng sản. Cái nguỵ danh “tù cải tạo/HO” phải được Chính Danh là: Tù Nhân Chính Trị và Nạn Nhân của Tội Ác chống Loài Người của Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản. Cũng cần phải nói thêm rằng khi dùng cái danh từ “cải tạo” của cộng sản là mắc mưu chúng bởi vì chúng tuyên bố lếu láo rằng vì các anh có “nợ máu” với nhân dân nên các anh phải đi “cải tạo,” và khi tự gọi mình là “tù cải tạo” tức là tự nhận mình có tội. Cũng như khi tự gọi mình là một “HO”- một cái nguỵ danh đã bị lộng giả thành chân để chỉ một người “tù cải tạo” – là tự từ bỏ cái căn cước người tù chính trị của mình. Cho nên, Chính Danh là vấn đề rất quan trọng cả về chính trị và lịch sử. Dùng Nguỵ Danh để che đậy và bóp méo một sự kiện lịch sử là tội đại gian và có tội đối với lịch sử.

Đỗ Ngọc Uyển – Sanjose, California

****************************************************************************************************************

Chính sách “Tập trung cải tạo”

Lời nói đầu :
Bài sau đây được viết theo Vũ Băng Sơn, một cựu tù nhân “cải tạo”.
Sau 30/4/1975, có vào khoảng từ 500,000 (theo lời Mai Chí Thọ) tới 1 triệu nhân viên quân cán chính (theo lời của Nguyễn Hữu Thọ) của VNCH đã “được” đưa đi “cải tạo”.
Tập trung cải tạo là một đặc điểm duy nhất chỉ xảy ra trong thế giới CS mà thôi, vì trong thế giới tự do người ta không cần phải “cải tạo”. Mục đích của nó là Cải Tạo Tư Tưởng, tức là Tẩy Não (Brainwashing). Việc “cải tạo tư tưởng này” xảy ra dưới nhiều hình thức, từ học tập chính trị tại phường xã, trường học, cơ sở làm việc, tới việc tập trung vào trại cải tạo và đối tượng là bất cứ ai vừa “được giải phóng”.
Không phải tự nhiên mà CSVN có thể phát minh ra nó : họ đã thừa hưởng từ CS Nga-Tàu cái chính sách cực kỳ tinh vi và hiểm độc nhất nàỵ Vũ Băng Sơn cho biết rằng chính dân miền Bắc, khi nghe đến “tập trung cải tạo”, cũng phải rùng mình, nổi da gà. Bởi vì đây là một cuộc “diệt người, diệt tư tưởng tự do của con người”. “Cải tạo tư tưởng” của CSVN không ồn ào như kiểu Pol Pot, mà thầm lặng nhưng có hiệu quả tối đa. Ðó là một cuộc “tắm máu” (bloobath) thật sự, được lồng vào bằng những mỹ từ đẹp đẽ và lộng ngôn. Do đó, người ngoại quốc không tài nào có thể thấy đầy đủ mức độ độc ác của nó để qui cho CSVN tội diệt chủng như họ đã thấy ở Cam-bốt từ 1975-1978, vì CSVN còn khôn hơn Khmer đỏ rất nhiều.

——oOo—–

Chính sách “Tập trung cải tạo” là gì ?

Vũ Băng Sơn

Chính sách “tập trung cải tạo” đã có từ năm 1945 khi CSVN làm chủ tình hình miền Bắc. Những ai ở trong các trại Thanh Phong, Thanh Lâm đều chứng kiến 18 gia đình được tập trung cải tạo đã trải qua 3 thế hệ, đời cha, con và cháu, bởi người bố đã từng làm việc thời Pháp thuộc, nên đời con cháu vẫn tiếp tục theo bố đi cải tạo, tập trung cho đủ bộ. Cứ 5 năm một lần, các gia đình này được chỉ định khai phá một hòn núi không người sát biên giới Lào-Việt, tự mưu sinh và không được một sự trợ giúp nào của CS. Sau 5 năm, lại bị tiếp tục chỉ định khẩn hoang một hòn núi khác, dĩ nhiên ngày càng thê thảm hơn. Có 2 vợ chồng đảng viên được chỉ định đi sát và thực hiện châm ngôn, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với những người bất hạnh này trên 30 năm nay và chắc hiện vẫn còn tiếp tục…
Khi VNCH bị CS Bắc Việt chiếm lấy vào 30/4/1975, chính sách “tập trung cải tạo” được hình thành qua các giai đoạn sau :

I. Giai đoạn trấn an quần chúng và những người cộng tác với chế độ VNCH.
Khi chưa đủ lực lượng và khả năng kiểm soát được Nam VN, tập đoàn CS Hà Nội cùng tay sai là Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam VN khuyến dụ bằng cách dùng chữ “học tập và cải tạo”; đến giai đoạn cuối cùng thì CS mới gọi đích danh là “tập trung cải tạo”.
1. Ngụy tạo bằng chính sách 10 điểm của chính phủ cò mồi “Chính phủ Cách Mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”, Cộng Sản khuyến dụ các viên chức chính quyền và quân đội nên hợp tác với CS có kèm theo những bảo đảm cần thiết.
2. Phát động chiến dịch “học tập” về chủ trương, chính sách của cái gọi là “Chính quyền Cách mạng” : Các đợt học tập 3 ngày hay 1 tuần dành cho mọi tầng lớp quần chúng, đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, báo chí, tư pháp, lập pháp, hành chánh và quân đội, và họ sẽ được cấp giấy chứng nhận sau mỗi đợt học tập và trả về nguyên quán nhằm mục đích giải tỏa áp lực dân số tại Saigon và những nơi thị tứ, giao cho địa phương kiểm soát, một mặt đánh trúng tâm lý những người ở lại muốn sống một cuộc sống bình an dù chỉ là trong ảo tưởng.
3. Trần Văn Trà ra thông cáo chính thức yêu cầu chính quyền, quân đội, các thành phần dân cư, đoàn thể, đảng phái phải trình diện ở những địa điểm quy định sẵn trong các ngày 13, 14, 15/6/1975, đồng thời mang theo 21 kg gạo trong thời gian 1 tháng đối với các viên chức chính quyền, đảng phái; riêng đối với quân đội, trong 15 ngàỵ Thông cáo gây cho mọi người một ảo tưởng là thời gian học tập có giới hạn, đó là động cơ khuyến khích tất cả mọi thành phần hăng hái phải ra trình diện đông đủ.

II. Giai đoạn tiêu diệt :
Chỉ nhìn riêng khía cạnh này, trừ Saigon, Gia Định và một số tỉnh lỵ, thị xã lớn thì CS chưa lộ nguyên hình, nhưng ở các nơi khác CS giết người như ngoé vào nửa đêm, tàn sát gia đình nạn nhân, xử tử hình một số dân biểu, đảng phái, quân đội và cảnh sát một cách công khai không cần che đậy, mà thủ phạm chính là Việt Cộng thuộc Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Người ta không biết thật rõ số người bị CS địa phương giết là bao nhiêụ
Hầu hết những người trình diện tại trung ương và các vùng lân cận được đưa về Long Thành (thành phần dân sự, cảnh sát), Long Giao (quân đội) hoặc Suối Máu, K3, K4 (Long Khánh).
1. Trong tháng đầu tiên, sửa chữa doanh trại, thành lập hội trường, mở “căn tin” mua bán thực phẩm và đồ dùng, có nơi còn gọi tư nhân thầu ăn uống, cửa trại và cửa phòng không bị đóng để tạo một không khí đây là trường cải tạo, mọi người đến đây để học tập thông suốt đường lốị Chỉ trừ thành phần bị bắt trước và sau 30/4/75 thì bị lao động khổ sai, bị đóng cửa phòng giam ban đêm. Danh từ được gọi với nhau là “cải tạo viên”, hoặc “trại viên”.
2. Màn “không đánh mà khai” bắt đầụ Ngoài phần sơ yếu lý lịch, buộc phải kê khai những việc làm bằng những sự kiện chính xác, gây phương hại cho “chính quyền cách mạng” ra sao, đồng thời phải tố cáo ai đã trốn tránh trình diện, và những phần tử “phản động” khác.
Sau đó, toàn thể “lên lớp” để học 10 bài chính trị, mỗi bài phải được thảo luận ở từng “tổ”, lập biên bản và thu hoạch, mục đích là tự tố cáo mình, tố cáo cha mẹ mình, anh em, họ hàng, con cái, bè bạn của mình. Bởi vậy CS tuyên bố huỵch toẹt rằng “một giờ làm việc cho ngụy là có tội đối với cách mạng rồi”.
Tất cả mọi người đều có ảo tưởng một cách khôi hài rằng học xong 10 bài là được đoàn tụ với gia đình, những màn lẩm cẩm đã xảy ra đối với những kẻ nặng nợ với gia đình, nhất là những kẻ yếu lòng. Cho nên có nhiều bài bản thật mùi mẫn, những bài ca con cá sống vì nước được trước tác một cách ngon ợ CS rất khôn ngoan; ngày 2/9/75, họ thả ra một số nhỏ, đó là một đòn tối độc để họ đốc thúc tù nhân còn ở lại phải kê khai thêm, nhất là những hoạt động có liên quan đến phản tình báo móc nối VC, và các gián điệp nằm vùng; mặt khác, việc tự tố cáo chính mình nhằm để trấn áp những hoang man trong hàng ngũ “cải tạo viên” trong khi CS còn đang đối phó với nhiều vấn đề khác. Rồi “cải tạo viên” buộc phải đi lao động khổ sai, vì “chỉ có lao động là cái thước đo lường quá trình cải tạo”.
Lợi dụng yếu điểm ai nấy đều nôn nóng trở về sum họp với gia đình, CS mới đề ra lao dộng là vinh quang, học tập tốt chưa đủ, phải lao động tốt để trở thành con người mới của xã hội mớị Vì đây là một cuộc đổi đời, vân vân và vân vân. Trong khi đó, một số cán bộ từ miền Bắc được đưa vào với bảng hiệu gắng trên ngực “quản lý trại giam”, mọi người mới ngở ngàng thì ra họ bị tù chớ không phải “cải tạo” như CS nói. Rồi bản án 1 năm, 3 năm ra đời. Và được khép vào kỷ luật của một trại giam…
3. Cuối năm 1975 và trong năm 1976, lần lượt những người tù cải tạo được “tập kết” ra Bắc. Họ được chất đống trên những toa xe lửa và những hầm tàu thủy dành cho súc vật; một số sĩ quan cấp Tá bị chết trong những toa xe đó trong khi tay vẫn bị còng chung với người còn ngoắc ngoảị
Đa số quân nhân bị đưa đi khai phá những khu rừng rậm làm “lán” dùng để ngủ ở các trại Yên Bái, Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Cổng Nhà Trờị Có các trại đặc dưới quyền Công An thống trị như Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Phú Sơn, Trại 5, Thanh Phong, Thanh Lâm, Thanh Cẩm,….(Thanh Hoá). Mỗi trại mang bí số như 10A, 20A, 30Ạ.., và từ đó màn diệt chủng hay một cuộc tắm máu không tiền khoáng hậu bắt đầu :
3a) Về phương diện an ninh :
– Thiết lập Cán bộ quảng giáo trực tiếp trông coi mỗi Đội, Cán bộ võ trang (còn được gọi là cán bộ súng dài) được tăng cường trong các đội đi lao động.
– Chỉ định Đội trưởng, Đội phó, Tổ trưởng, Tổ phó, đa số thuộc thành phần cấp thấp để điều khiển thành phần cấp Tá, Tướng, Bộ trưởng, nhằm gây sự sâu xé lẫn nhaụ
– Hoạch định một màng lưới ăng-ten chặt chẽ, kiểm soát từng người và báo cáo mỗi ngày với Cán bộ quản giáo hoặc Cán bộ an ninh trại, Cán bộ giáo dục hay Cán bộ trực trại.
– Tổ chức Ban thường trực thi đua mà trưởng ban và một số nhân viên thuộc loại tù hình sự Bắc Việt (tội giết người, ăn cắp, ăn trộm,…), trong đó cũng có một vài người tù chính trị thuộc thành phần có thân nhân với VC hoặc là những phần tử “tiến bộ”, cải tạo tốt, học tập tốt.
– Tất cả các đội đều biệt lập, kín cổng cao tường, tụ tập từ 2 người trở lên là bị phê bình kiểm thảo và đưa đến kỷ luật (biệt giam, kiên giam, hay bị còng một hoặc hai chân, hoặc cả hai cánh tay tùy theo tội trạng).
– Trong “hiện trường lao động” (các chữ trong ngoặc kép là do CS dùng), mỗi lần đi tiểu tiện phải cách xa 10 hoặc 30 m báo cáo Cán bộ quản giáo hay võ trang, tự ý rời khỏi phạm vi đều bị bắn bỏ. Các phòng giam được khóa bằng nhiều lớp khóa vào mỗi buổi chiều sau khi điểm danh với trực trại, và khi mở cũng phải báo cáo quân số với ỵ
3b) Kế hoạch hủy hoại mầm sống :
– Thủ đoạn tẩy não : khi không còn “lên lớp”, thỉnh thoảng Trại trưởng hoặc Cán bộ giáo dục trại, hoặc các Cán bộ từ Bộ Nội Vụ được đưa đến để đề cao chế độ ưu việt (cái nôi của đứa con nít, cái rốn của bà già) để tạo cho mọi người có mặc cảm tội lỗi đối với “chính quyền cách mạng” (“Tạo mặc cảm tội lỗi” là thủ đoạn thường dùng của CS đối với dân chúng và binh sĩ Mỹ; khi gán tội Mỹ đem quân tới Việt Nam để giết người VN chớ không phải giết CS. CS đã tẩy não họ từ phương xa bằng cách lập lờ đánh lận con đen cho dân và CS là một; kết quả là một số người Mỹ ngây thơ đã quay đầu lại chữi chính phủ của họ), đó là tội đáng chết, nhưng nhờ chính sách khoan hồng nhân đạo của Nhà nước và của Đảng nên mới được học tập, lao động cải tạo; vậy cần phải ăn năn hối cải, thành thật khai báo hết tội lỗi của mình và đồng bọn mới có thể trở thành người dân trong chế độ Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Dĩ nhiên luôn luôn có một câu thòng là khi nào làm tốt thì Đảng, Nhà nước và nhân dân mới xét thạ Vì nếu cho về bây giờ thì nhân dân sẽ trả thù vì “các anh là kẻ có nợ máu với nhân dân”. Đoàn tụ gia đình luôn luôn được đào sâu và mục đích là để “giúp đỡ” những kẻ còn ngoan cố hay chưa tiến bộ. Cứ mỗi tháng, mỗi quý (tam cá nguyệt; 3 tháng), 6 tháng đầu năm, 6 tháng cuối năm, đều làm bản kiểm điểm, chưa kể mỗi lần lên lớp đều làm bản thu hoạch, lập tờ khai lý lịch, khai cả dòng họ và những việc từ lúc mới có trí khôn đến ngày bị bắt.
Ngoài sơ yếu lý lịch, phần nội dung gồm có tư tưởng, học tập, lao động, nội quy và nếp sống văn hóa mới, đặt phương hướng, v.v…Bản tự khai có khi kéo dài đến 400-500 trang giấy là chuyện thường. Dụng đích của CS là lúc nào cũng muốn thần kinh tù nhân căng thẳng đủ để thể xác ngày càng tiều tụỵ Thâm độc hơn nữa, cứ mỗi dêm sau một ngày thụ hình khổ sai, phải “ngồi đồng” để tố cáo lẫn nhau trong lúc làm việc, những sai trái trong cử chỉ, trong lời nóị Buổi họp này do đội trưởng chủ tọa, đôi khi có Cán bộ quản giáọ Tất cả đều được ghi vào biên bản, và cứ mỗi tuần bình bầu cá nhân xuất sắc, trung bình và kém, rồi tù nhân tự đề nghị mức ăn thấp nhất cũng như chịu hình phạt kỷ luật. CS buộc mọi người như cái máy, không cần suy nghĩ, cứ làm theo lệnh, và mặc cảm “mình là kẻ gây nợ máu đối với nhân dân, nên phải cải tạo lâu dài, chấp nhận môi trường tù tội là lẽ sống của đời mình”. Kết quả, có nhiều tù nhân trở nên mất trí nhớ, có những hành động bất bình thường, và lúc nào cũng sợ hãi, coi cán bộ bằng tuổi con cháu như cha mẹ hay thầy của mình.
– Thủ đoạn bức tử : trước hết để biện minh cho hình phạt khổ sai, CS dùng câu : làm ngày chưa xuể, nên phải làm đêm, làm thêm giờ nghỉ. Đốn cây, vạt rừng, đập đá, thu dọn bãi mìn, thay trâu kéo cày, trồng mì trên đồi đá, tất cả đều có “chỉ tiêu”. Tai nạn lao động xảy ra thường xuyên và hàng ngàn người đã gục ngã trong chốn lao tù ở Miền Bắc.
Thứ đến là khẩu phần lương thực phi dinh dưỡng, tạo cho con người cái đói triền miên. Một Đại tá ở K1 Tân Lập đến chết ước gì có một củ mì để ăn cho đã.
Đầu óc, ngay khi nói chuyện với nhau cũng như khi viết thư về gia đình đều ám ảnh bởi cái ăn.
Lý trí và nhân cách bị hủy diệt và buộc phải sống chẳng khác gì một con vật vô tình cảm. CS đặt mức ăn theo giai cấp từ 18 kg cho đội trưởng, tới 15 kg, 12 kg và 9 kg cho các “giai cấp” khác để tạo sự ganh tị. Nhiều khi vì quá đói mà tù nhân đảo lộn tôn ty trật tự, tranh dành phần ăn và rồi thản nhiên trước lời chữi mắng thô lỗ của các tên Cán bộ quản giáo hay võ trang.
Về thuốc men, cái gọi là thuốc dân tộc Xuyên Tâm Liên, cây Mua, Aspirin, Sea trị bá bịnh. Có bịnh phải “khắc phục”, khai bịnh sẽ bị sụt khẩu phần hoặc bị kỷ luật. Mỗi tháng bị vài lần khám xét đồ đạc, gọi là “kiểm tra” hoặc “biên chế” từng đội, từng phân trại, do đó thần kinh của tù nhân luôn luôn bị căng thẳng. Chết hoặc bịnh bị kết tội là trốn trách nhiệm, vô ơn với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Sau hết, không kể số người chết bởi các bịnh rất tầm thường vì thần kinh và thể xác suy nhược trầm trọng, bởi lao động khổ sai, bởi ăn uống để cầm hơi, bởi thuốc men hầu như không có, bởi không đủ sức để chịu đựng nơi rừng thiêng nước độc. Số người sống sót, nếu thần kinh không hư hỏng thì cũng chết một cách bất ngờ vì ăn phải những củ mì luộc mà không thay nước, đó là những độc dược không sớm thì muộn cũng phải tắt thở theo thời gian mà thôị
3c) Gia cảnh tù nhân bị lợi dụng : hủy diệt cả tinh thần lẫn thể xác những người tù chưa đủ, CS còn áp dụng các thủ thuật như sau :
– Kể từ 1977, một số cán bộ CS Miền Bắc vào Nam dùng tiền tài, quyền uy kể cả bạo lực để lấy cho kỳ được vợ của những thành phần cao cấp, đánh trúng tâm lý những người đàn bà khốn khổ này rằng:
(1) tạo ảo ảnh can thiệp chồng sớm được tha về,
(2) khỏi đi kinh tế mới,
(3) cuộc sống khỏi khó khăn,
(4) nhà cửa khỏi bị tịch thu và
(5) không bị ai hăm dọa trả thù.
– Con của “ngụy quyền” là một trong các đối tượng để đưa đi chiến trường Cam-Bốt hoặc biên giới Hoa-Việt. Những người trẻ này đang ở trong một viễn ảnh nghèo đói cùng cực, bởi không được bước chân vào ngưỡng cửa đại học cho dù có xuất sắc. Họ có thể được xét lại nếu đi đầu quân ở 2 chiến trường kể trên. Kết quả là vô số đã chết mất xác, nếu may còn sống thì bị tàn phế (khoảng hơn 100,000 người bị tàn phế và 60,000 bị giết ở chiến trường Kampuchia).
– Gia đình những tù nhân bị đuổi ra khỏi nhà và bắt lên vùng kinh tế mới thiếu thốn trăm bề. Một số đã chết tại đây, một số khác trốn về thành phố sống ở lề đường hoặc dưới hầm cầu. Con gái họ lại rơi vào cảnh làm điếm để giúp mẹ và các em trong khi cha đi biền biệt không về; họ thuộc các nữ sinh của những ngày đi học thơ thới ở nhà trường của miền Nam.
3d) Kế hoạch tiêu diệt một thế hệ : nghe theo lời nói của tên HồChí Minh khát máu “10 năm trồng cây, 100 năm trồng người” — một lưỡi hái của tử thần có một không hai trong lịch sử Việt Nam đau thương, gieo rắc tang tóc và đau khổ cho các thế hệ trong mấy mươi năm qua, CS con cháu của Hồ đã áp dụng lời của “Bác” để biến đổi cả văn học, phong tục, tập quán cho tới kinh tế của VN theo một “tư duy” mới của XHCN).

III. Kết luận :
Trên đây chỉ là những điều khái quát về cải tạọ Chính sách diệt chủng này của CS lại mang tới một hậu quả hoàn toàn trái ngược :
1. Dùng thời gian để tiêu diệt tinh thần lẫn thể xác bằng biện pháp thống trị sắt máu và bạo lực càng nuôi dưỡng thêm lòng căm thù chế độ CS. Hơn nữa, nó càng gây thêm vết dầu loang trong quảng đại quần chúng VN và dư luận thế giới một sự phẫn nộ và ghê tởm hơn bao giờ hết. Kể cả những người trước đây đã từng ca tụng CS là “thiên thần” như Ginette Sagan, Rolland Pierre Paringaux,…họ tuyên bố rằng “Không còn có thể dành sự yên lặng cho Hà Nội được nữa vì sự đàn áp của họ quá trắng trợn”. Chỉ trừ Thương Nghị Sĩ George McGovern, ứng cử viên Tổng Thống, ăn phải bã CS khát máu mới có thể nói ngược mà thôi.
2. Ngoại trừ số thương vong vì già yếu, bịnh tật, đói khát, hình phạt khổ sai, thì theo kết quả điều tra của 2 giáo sư đại học Jackson và Desbarats có ít nhất là 65,000 người đã bị hành quyết từ 1975-1983. Đó là con số rất khiêm nhường, thật ra nó còn ghê gớm hơn nữạ
3. Nói sơ chuyện này, tôi (Vũ Băng Sơn) không nhằm để kêu gọi lòng thương xót của các bạn, nhưng chỉ muốn thế giới biết rằng CSVN đã tiến hành cuộc thảm sát những người đã đầu hàng họ. Có hơn 500,000 tù binh bị bắt sau 1975 đã ngụp lặng trong biển máu cũng như đa số người Việt Nam còn lại.
Trường Chinh đã nói rõ trong một phiên họp của Bộ Chính Trị : “Lỗi lầm của chúng ta là không thể giết hết bọn ngụy quân ngụy quyền cùng gia đình bọn chúng, nên giờ đây ta đã gặp nhiều khó khăn từ năm 1975 đến nay. Nếu cần, chúng ta có thể giết 10, 20, 30 hoặc 40 triệu kẻ chống đối, thì chế độ ta sẽ không gặp nhièu khó khăn như thế.”
Ngoài kia tôi còn nghe văng vẳng những tiếng kêu gào khi xưa của những kẻ phản chiến, những hành động thiếu suy nghĩ của những người “ăn cơm quốc gia, thờ ma CS” thay vì ráng giữ gìn chính nghĩa lại đi nối giáo cho CS. Theo thời gian, nghĩ lại thì đó chỉ là những người làm tro hề không công cho CS, bởi vì CS có mang ơn họ đâu, mà còn quay lại hại họ nữa. Bây giờ các vị đó ở đâu rồi ? Xin mời các vị hãy sống với những tù nhân cùng khổ như chúng tôi chỉ vài tiếng đồng hồ thôi tại bất cứ trại tập trung nào, đảm bảo sẽ…ô hô ai tai và tẩu quả nhập ma ngay.

Vũ Băng Sơn

***********************************************

Lời cuối (tác giả:Nguyễn Cao Quyền):

Quyết định của Cộng Sản Việt Nam đưa quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm 1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm miền Nam, đáng lý ra Hà Nội phải biết lợi dụng thời kỳ vàng son này để hòa hợp hòa giải dân tộc và xây dựng tương lai phồn thịnh cho đất nưốc.

Giữa tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đã bày tỏ ý muốn thiết lập bang giao với các nước Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi Luật Tân và Thái Lan minh định rõ là các căn cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán.

Vào thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, tháng 8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác thân hữu giữa các nước trong vùng kể cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5 tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông Nam Á tành một khu vực phồn vinh.

Sau khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam còn được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế với một khoản vay mượn đầu tiên là 35 triệu Mỹ Kim. Ngân Hàng Thế Giới cũng xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội còn là hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.
Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách cải tạo sai lầm thì nhân dân hai miền Nam Bắc đã cùng dồn nỗ lực vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, thực hiện việc hoà hợp hòa giải dân tộc để nhanh chóng đưa đất nước đến cảnh phú cường.

Bị Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đã xé bỏ hiệp định Paris và xâm chiếm miền Nam để rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó. Hậu qủa của những quyết định mù quáng này là một nước Việt Nam kiệt quệ và tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai thế lực thù địch. Cắt đất dângTrung Quốc để duy trì mạng sống chính trị và qùy gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc lại có một thòi kỳ nhục nhã như hiện nay.

Đối với Hoa Kỳ, bỏ rỏi miền Nam Việt Nam trong trận đồ quốc tế để thắng Liên Xô và làm tan rã khối cộng sản là một vấn đề chiến lược. Tiến hành chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt Nam để họ được sang sinh sống và đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề của lương tâm. Đứng về phương diện quyền lơi cuả Hiệp Chủng Quốc mà xét thì trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều khôn ngoan và thắng lợi.

About these ads

About these ads

  1. Không có bình luận
  1. No trackbacks yet.

Bình luận về bài viết này